Tác phẩm và dư luận

13/1
9:23 PM 2017

NHÂN ĐỌC “SƯƠNG NẮNG ĐỜI NGƯỜI”-HỒI KÝ CỦA GIANG QUÂN

VÂN LONG - Người công dân ưu tú của thủ đô, đó là danh hiệu ông Giang Quân cùng 9 người nữa được Thành phố Hà Nội tuyên dương (2012) năm ông 86 tuổi. Xuất thân từ một gia đình có bố là thợ mộc, nên ông cũng biết nghề mộc để giúp đỡ bố ở tuổi thiếu niên.

                                                              Nhà vă Giang Quân

Nhưng ông được học hành cơ bản hơn những thiếu niên hàng xóm, ông sớm thành một nhà văn của thị trấn Cẩm Giàng, (sớm viết báo, có kịch thơ in báo, từ khi ông chưa về Hà Nội, biết tiếng Pháp đủ để đọc sách báo Pháp, dịch những truyện ngắn cho trẻ em.). Trước khi Hà Nội giải phóng mấy năm ông đã mở hiệu sách Quang Vinh ở Hà Nội, khi chuyển nhà mới, (1952) ông mở thêm chức năng xuất bản sách: Quốc Việt thư xã ). Khi Cách mạng tháng Tám thành công, gia đình ông ở Cẩm Giàng, ông mới 18 tuổi,  vừa tham gia dậy bình dân học vụ vừa viết báo, gửi các báo ở Hà Nội, đã in thơ, truyện ngắn, đóng góp vào hoạt động văn học, báo chí từ những ngày đầu của Cách mạng. Khi Hà nội nổ súng đánh Pháp, bà con Hà Nội phải sơ tán khỏi nội đô thì lính Pháp đã chiếm đóng thị trấn Cẩm Giàng, bắt bớ những kẻ bị chúng tình nghi ủng hộ Kháng chiến, trong đó có nhà báo Giang Quân mà cả thị trấn lúc đó chưa ai biết đó là bút danh chàng thanh niên con ông chủ xưởng mộc Nguyễn Hữu Thái. Có một kẻ cũng ở Cẩm Giàng tập viết báo, gửi bài cho báo Tia Sáng ở Hà Nội, số Tết tờ báo này vừa in bài của tác giả Giang Quân, nên khi anh ta lên Hà Nội, được tòa soạn hỏi về nhà thơ Giang Quân ở Cẩm Giàng. Anh này  ngớ ra, nhưng khi về đối chiếu địa chỉ tòa báo đưa cho, thì đó chính là địa chỉ của anh Thái, con ông chủ xưởng mộc…

Ngay sau đó, một buổi chiều, chiếc xe bịt bùng của mật thám Pháp đỗ xịch trước cửa xưởng mộc, hỏi người tên là Thái, và “mời” anh lên xe…Hóa ra “người  đồng hương” viết mãi không được báo đăng bài, đã ghen ăn tức ở…bịa đặt những gì đó không ai biết…về anh.   

Đêm đó, anh được nếm mùi tra điện của mật thám Pháp…Anh bị giật rung người lên mỗi khi chúng bấm nút điện, đến lần thứ ba thì anh ngất đi…Lần này thì chúng giải anh sang cho tên trùm mật thám Pháp, mà anh vẫn nghe đồn về những đòn tra tấn rất thâm độc của hắn. Nhưng may, khi hắn dùng con béc-giê để tra hỏi một cô gái trước anh, thì anh đã nắm được đặc điểm của thằng cha này. Nó rất nể người có học, giỏi tiếng Pháp, nên khi hỏi cô gái đến lần thứ ba, con béc-giê sắp tuân thủ một lệnh mới của chủ thì cô gái sợ hãi thét lên bằng tiếng Pháp:   

Nước Pháp tự do, bình đẳng, bác ái, không cho ông làm nhục phụ nữ như vậy! “                                                 

            Tên trùm mật thám Pháp bị bất ngờ về phản ứng của cô gái, ăn mặc như gái nông thôn mà tiếng Pháp lại thông thạo…(?) Nó lệnh cho hai gã người Việt mang cô gái đi. Tên này gọi tiếp anh lên: Hắn đi thẳng vào câu hỏi chính bằng tiếng Pháp. Anh cũng trả lời ngay bằng tiếng Pháp. Hỏi: Có phải kịch bản Hờn Sông Gianh in báo Tết Tia Sáng vừa rồi của ông không ? Anh nhận ngay.. .Hắn gật đầu, hỏi tiếp: Ông định tuyên truyền gì cho Việt Minh? Anh trả lời: “Tôi chỉ nói lên lòng yêu nước của người Việt, không ám chỉ riêng ai. Đó là câu chuyện lịch sử đã hàng trăm năm của người Việt chúng tôi !”...(Anh chưa biết rằng lúc đó, tên mật thám Pháp đã nhận được lời đề nghị tha thiết kèm theo món quà hậu hĩ của bà vợ ông phó tỉnh trưởng, bà bạn của vợ anh, vận động để làm nhẹ tội cho anh, nếu anh có tội, và bà xác nhận gia đình anh là một gia đình lao động nền nếp từ xưa. Và bà cam đoan từ sau Cách mạng tháng Tám, anh Thái chỉ tham gia phong trào xóa nạn mù chữ của thị trấn, chưa làm gì khác cho chính quyền mới của Cách mạng. Tên trùm mật thám xét thấy lời tố cáo của kẻ xấu kia không có cơ sở để bắt tội anh. Những lời bịa đặt khác thuộc địa bàn Cẩm Giàng thì không có bằng chứng nào cụ thể. Hắn chỉ nhân có sự tố cáo của kẻ xấu để tra hỏi xem đằng sau vở kịch yêu nước kia, nghi phạm còn có thể viết bài gì khác với dụng ý khác nữa không, nhưng những giấy tờ thu nhặt được ở nhà anh ta không có bản nháp nào có thể kết tội được…Nay đã biết kẻ viết bài này là người có học, có thể kiện lại hắn, khi tội danh chưa đủ để giải về Hà Nội. Gã còn là con nhà khá giả, có được khoản tiền chạy chọt để gã được tha, lại có người quen là vợ viên phó tỉnh trưởng Hải Dương. Tha hắn, nhưng hắn vẫn trong vòng cương tỏa của chúng thì cũng có lúc chúng thu lợi như “nuôi” gia súc trong nhà, “hắn” mà lộ ra một tội danh khác, đem truy tố hợp lý chắc món quà chạy tội lúc ấy sẽ nặng ký hơn vụ này nhiều!... 

          Biết được chính xác kẻ đã tố điêu anh. Chỉ vì ghen ăn tức ở mà một kẻ tiểu nhân có thể sát hại một con người bằng thủ đoạn nhơ bẩn ấy. Anh thấy cái thị trấn nhỏ bé này không thể là đất cho mình dung thân nữa, anh lại nhờ vợ nhân chuyện này, đem quà cáp đến biếu ông phó  tỉnh trưởng, xin ông tờ giấy giới thiệu cho chuyển cư về nội thành Hà Nội, chỉ để mở hiệu sách và nhà xuất bản…(khi anh biết tên mật thám Pháp ở địa phương này vẫn cử người theo dõi anh từng bước).   

            Ông Giang Quân manh nha làm xuất bản từ năm 1950, khi hiệu sách Quang Vinh của ông dọn về 159 Khâm Thiên. Lúc đầu chỉ là in sách của mình viết. Tập đầu tiên là Lời chim non  là tập thơ viết cho các em trong loại sách Ánh nắng hồng do hiệu sách của ông phát hành. Sách in ra cũng bán được, đủ làm vốn in những tập tiếp theo như Cẩm nang công thức toán tiểu học rồi gần chục cuốn ông viết dựa theo Ăng-đéc-xen, truyện dân gian Pháp và cổ tích Việt Nam, Trung Hoa. Ngoài ra ông còn có 12 vở kịch thơ lịch sử một màn,  đăng tải trên các số báo Tết và được sự công diễn của học sinh các trường, đầu tiên là các trường trung học ở Hà Nội. Khi báo chí Hà Nội và xuất bản phẩm được phát hành rộng khắp các thành phố tạm chiếm thì mặc nhiên, Giang Quân đã có chỗ đứng khá chắc trong giới nhà văn, báo chí và nghệ thuật sân khấu ở vùng tạm chiếm, riêng về kịch thơ lịch sử thì ông chỉ nhường nhà thơ Hoàng Công Khanh, tác giả kịch thơ Về Hồ, từng công diễn ở sân khấu Nhà Hát Lớn Hà Nội ngay sau khi Cách Mạng Tháng Tám thành công,  Không chỉ ở Hà Nội, mà kịch bản dưới dạng kịch thơ lịch sử còn được bà con ở những vùng tạm chiếm xử dụng…để xả được lòng yêu nước cho đỡ bức xúc…Khi Bảo Đại được chính phủ bù nhìn của Pháp mời về nước để lập chính phủ mới thì các đảng phái  đầu cơ chính trị từng nhóm ra báo, tuyên bố quan điểm của đảng mình, của báo mình, tuyên ngôn của báo ấy tha hồ lạm phát hai chữ yêu nước. Lúc báo chí được xuất bản tự do như vậy (lên tới gần 70 tờ báo). thì lại có sự khủng hoảng thiếu bài vở ở các trang văn hóa văn nghệ, đòi hỏi chính của độc giả khi mua tờ báo để đọc, để biết về mọi chuyện xẩy ra trong những thành phố, thị trấn tạm chiếm, và qua báo chí của địch mà đoán ra tình hình chiến cuộc đang nóng lạnh ra sao…Tờ báo tuyên bố quan điểm chính trị của mình thì chỉ cần một hai trang đầu, nhờ được một hai nhà báo hoặc nhân sĩ có chút tiếng tăm, đứng ra tuyên bố. Nhưng ra báo là phải có người đọc, không phải ai cũng quan tâm đến chính trị, vậy những trang ruột của nó phải đáp ứng được nhu cầu của độc giả nhiều mặt. Ông Giang Quân là người thích viết kịch thơ, cũng không hẳn vì ông thích thể loại này. Mà vì kịch thơ lịch sử là nơi dễ gửi gắm lòng mình vào những hòan cảnh tương tự…Nếu Hoàng Công Khanh thành công ở những vở kịch thơ dài 3, 4 màn, có thể công diễn cả một đêm, thì Giang Quân chỉ mong được in trên các số báo Tết những vở kịch một màn, dài hơn, báo sẽ không thể in. Những vở chỉ cần người đọc, đọc lên cho thỏa ý thích của mình, còn diễn trên sân khấu thì thảng hoặc mới có một vài trường trung học chọn làm tiết mục diễn xen giữa buổi liên hoan cuối năm học…Thí dụ vở Con tôi về giữa mùa xuân do Băng Sơn đóng vai chính khi anh đang học ở trường trung học Minh Tân, được công diễn nhiều lần…                                         

            Ngày 10 tháng Mười 1954, Ngày vui lớn của người Hà Nội đã đến!  Người dân Hà Nội ở lại chờ những người thân của mình từ kháng chiến trở về, tính từng ngày, từng giờ gặp gỡ, hân hoan đón người thân…

Trong khi đó, thì một trật tự xã hội khác của báo giới Hà Nội cũng đang hoạt động để xếp sắp lại. Trên mặt tờ báo Thời Mới (vốn là tờ Tia Sáng cũ), có mấy dòng tin nhắn:  “ Lương Danh Hiền cần gặp bạn Giang Quân vẫn có thơ và kịch thơ đăng trên Tia Sáng, đến trụ sở Thành Đoàn Thanh niên cứu quốc Hà Nội, hỏi Lê Tám”  Tới  lúc gặp Lê Tám, Giang Quân mới vỡ lẽ: Mình đã được anh chọn từ khi Thủ Đô chưa giải phóng…như chọn một hạt giống đã sẵn sàng cho việc gieo trồng. Ông Lê Tám (tức Lương Danh Hiền, hôm ấy mới xuất hiện bút danh Lê Tám) là phó bí thư Thành Đoàn gặp ông Giang Quân mời ông tham gia Ban vận động thành lập Mặt trận thanh niên thống nhất của Thành phố và của Trung ương với tư cách là đại biểu thanh niên văn nghệ Hà Nội.                                  

Và từ đó, trong khoảng hơn mười năm, lần đầu tiên Giang Quân được sống một thời thanh niên sôi nổi (cái thời ông tham gia Ban Chấp hành Hội Liên hiệp Thanh niên Hà Nội ba khóa liền từ 4 -1957 đến tháng 6 – 1968). Tính ra là từ năm 30 tuổi đến năm 41 tuổi, mới thực là chuỗi ngày tuổi trẻ của ông được giải phóng.  Tôi đọc cuốn hồi ký Sương nắng đời người  của ông, thỉnh thoảng  lại bắt gặp tên mình trong một nhóm hoạt động nào đó do ông tổ chức: thí dụ ở trang 170:

 Nhớ mãi chuyến đoàn đại biểu thanh niên thủ đô lần đầu lên thăm căn cứ địa Tân Trào. Đoàn có 5 anh em, trong đó có Lê Tám trưởng đòan, Vân Long, tôi, một thanh niên trí thức và một công nhân. Tất cả trên một chiếc xe com măng ca. Đường sá lúc đó còn gập ghềnh, các sông đều chưa có cầu, chờ đợi phà mất nhiều thời gian, từ sáng tới chiều mới tới Sơn Dương, trong kháng chiến có tên là Châu Tự Do. Ngủ một đêm ở Huyện đoàn, hôm sau huyện tổ chức đưa đoàn đi bộ vào Tân Trào. Cử 3 thanh niên du kích đem súng và dao quắm dài, vừa bảo vệ, vừa phạt lau để mở đường mòn sau mấy năm ít người qua lại đã mọc dầy đặc

Thú thật, tôi chỉ nhớ lơ mơ về chuyến đi này. Bây giờ đọc mấy dòng trên mới hình dung ra: Hôm đó là thứ sáu, anh Giang Quân tìm gặp tôi, và hỏi: “Vân Long này! Chủ nhật tới bọn mình định đi thăm Tân Trào, cậu có đi được không? Tuổi các cậu là chủ nhật thường bận hẹn hò, khó mà dứt đi được…” Đúng là tôi có một cái hẹn, nhưng có thể báo hoãn đến hôm khác gặp cô ấy cũng không sao, còn Tân Trào là một địa điểm tôi đang mong được thăm mà hôm nay mỡ đến miệng mèo sao tôi lại từ chối? Vậy là chuyến đi đó do anh Lê Tám lấy được chiếc xe, đi công tác, xong việc, anh muốn tận dụng sức chở của chiếc xe chưa phải giao lại cho cơ quan, thực hiện chương trình đã đề ra cho một đoàn đại biểu thanh niên đi thăm Tân Trào. Vậy là tôi đột xuất cũng là khách được mời. Nhưng tôi không ngờ chiếc xe chứa được ít người đến thế! Và anh Giang Quân lại yêu tôi đến thế, ngay ở việc xếp sắp người trước, người sau trên một chuyến xe…

Chức trách do Ban Chấp hành Hội LHTN HN giao cho cũng đủ để ông tiêu hết khoảng thời gian mà ông đụng vào lãnh vực nào cũng là đụng việc làm mới mẻ, Hà Nội chưa có tiền lệ. Ông đành phải vắt óc ra, hình dung sẽ làm điều này điều nọ. Thí dụ tổ chức một đội văn nghệ thanh niên đi phục vụ (thăm hỏi, động viên) những công trình thủy lợi ở các huyện ngoại thành vừa đồng loạt ra quân chẳng hạn…Những ngày kỷ niệm lịch sử nên tổ chức những gì ở các quận trong thành phố, thành lập những nhà văn hóa Huyện ở ngoại thành, mở lớp tập huấn cho cán bộ văn hóa văn nghệ xã…Nhưng ông đâu chỉ có công việc của đoàn thể. Ông còn là một  doanh nhân sách giỏi nghề, nhiều kinh nghiệm cả từ khâu in ấn, phát hành. Tổng Công ty phát hành sách đã nhờ được ông đứng ra xếp sắp lại các loại sách, truyền thụ lại một số kinh nghiệm ông đã làm trong Hà nội. Chỉ trong thời gian đầu giúp các nhân viên nhà sách ở chiến khu về, ông mới thấy nghiệp vụ của họ những ngày ở chiến khu thật đơn giản. Cũng bởi trên thực tế, số sách ngoài kháng chiến in ra không nhiều, gần chục năm xuất bản, số tên sách mang về Hà Nội có lẽ chỉ còn trên dưới 100 cuốn. Số sách này được bổ xung bởi số sách được chọn lại trong Hà Nội tạm chiếm, nhiều cuốn còn có ích, còn dùng để tham khảo được.

Nhưng sau thời gian truyền đạt lại kinh nghiệm về phát hành  sách, giúp phát hành sách một số buổi nói chuyện về những cuốn cần tuyên truyền rộng, như Những lá thư từ tuyến đầu Tổ quốc, Sống như anh…ông và Lê Tám luân phiên đi nói chuyện, hai người bạn đồng niên  đôi lúc đi cùng với nhau, một người nói, một người chỉ nghe…Khi ra về lại góp ý kiến cho nhau, nên bỏ qua điều này để tập trung vào điều khác đáng nhấn mạnh hơn, chẳng hạn…

Rồi khi hợp nhất hai Sở thành Sở Văn hóa – Thông tin, Hà Nội  đã tập hợp những văn nghệ sĩ hai Sở thành một lực lượng đáng kể: Huyền Tâm làm tổ trưởng, mà tổ viên lại là Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Nguyễn Dậu, Hồ Minh Hà…. Đó là những nhà văn có tác phẩm ở trình độ chuyên nghiệp, anh Giang Quân có lẽ nhẹ cân hơn một chút, nhưng khi cần diễn giả nói trước công chúng thì Giang Quân lại là người số 1. Có thể nói: liên tục trong khoảng 20 năm đào tạo cán bộ văn hóa cơ sở, ngừơi chủ chốt của hệ thông tin văn hóa cơ sở vẫn là ông Giang Quân.

Vậy là khoảng hơn mười năm đầu sau ngày Hà Nội Giải phóng, ông làm cả hai công việc: Vừa là cán bộ, tư vấn cho Tổng Công ty Phát    hành sách Nhân Dân vừa là cán bộ văn nghệ của Sở Văn Hóa Thông tin Hà Nội và Hội Liên hiệp Thanh niên Hà Nội suốt ba khóa liền.                 

Người tiếp sau sự kết bạn, gọi bạn của hai ông, tôi không ngờ lại là tôi, một anh chàng trẻ hơn hai ông đến 7,8 tuổi. Một hôm tôi được ông  Giang Quân gọi điện hẹn sáng chủ nhật tới, ông muốn gặp tôi bàn xuất bản một cuốn sách. Tôi đoán là một tập thơ in chung nhiều tác giả, như ông vẫn thường làm trước cả ngày Hà Nội giải phóng. Tôi đến anh khá sớm, đã thấy anh Lê Tám ngồi đó. Hóa ra tôi chỉ đoán đúng một nửa: Các anh muốn xuất bản tập thơ, chỉ cần in chung 3 tác giả, đó là tập thơ chỉ một đề tài: Tình yêu! Tôi ngẩn người về chủ đề của tập thơ, lại là của hai nhà thơ cứng tuổi, con cái đầy nhà: Anh Giang Quân đã 4 mặt con, anh Lê Tám hỏi ra cũng đã 2 con. Hai anh lại là hai cán bộ lãnh đạo giới thanh niên. Anh Lê Tám cởi gỡ thắc mắc cho tôi: Anh Vân Long ạ! Cánh trẻ hỏi tôi rất nhiều về thơ tình trong xã hội ta: Trong số những tập thơ in ở kháng chiến chuyển về thành, không thấy một tập thơ in riêng nào viết về tình yêu. Có phải đó là chủ trương xã hội ta không khuyến khích thơ tình yêu? Hai chúng tôi bàn nhau: Vậy thì nên in một tập thơ tình do các nhà thơ ở ngay trong tổ chức của Thanh Niên Hà Nội sáng tác. Thời điểm đó, 1956, vụ phê phán những bài thơ Nhân văn Giai phẩm đang nóng hổi, tôi hơi ngạc nhiên là ý kiến in tập thơ tình yêu lại chính anh Lê Tám đề xuất…Cái lo về ảnh hưởng NVGP không còn là mối lo nữa, bản thân hai anh đã là bộ lọc đáng tin cậy, là hai lá chắn bảo đảm! Tên tập thơ, tôi cũng không bàn thêm gì nữa, hai anh đã chọn cái tên Đường vào tim! Còn vì sao hai anh ấy chọn tôi làm người thứ ba mà không chọn thêm một người nào nữa ? Có lẽ sự quá trẻ của tôi cũng là điều thuận lợi, chưa dễ có tỳ vết gì trong đời sống ở vùng tạm chiếm. Anh Giang Quân biết tôi từ lâu không kể, anh Lê Tám hẳn chỉ đọc thơ tôi đã in trên các báo, nhất là mấy tờ báo phía Nam như Đời Mới, Thẩm Mỹ. Đó là những tờ tuần báo in đẹp và chọn bài không phải kiêng kỵ gì, như những bài có “khuynh hướng kháng chiến” của tôi xuất bản ở Sài Gòn, cụ thể là những bài như Lửa Yên Khê (Đời Mới 25-3/1954) Lời bút (Đời Mới 17-2/1954), Biệt Hà Nội (Thẩm Mỹ, khoảng giữa năm 1954)…Miền Bắc thì tôi hay gửi những bài có độ dài như truyện ngắn thơ Mối tình thời loạn (150 câu thơ, Tiếng dân số Tết 1953), Mơ Xuân, kịch thơ một màn  Giai phẩm Xuân Đẹp (Tết 1953)… 

Về văn, ông Giang Quân có nhắc đến cuốn tiểu thuyết cuối cùng được ông đưa duyệt và cho in xong, trước khi Hà Nội Giải phóng. Biết vậy nhưng ông không chờ được nhìn cuốn sách, rồi không kịp lấy được cuốn sách ông đã thoát khỏi Hà Nội ra vùng kháng chiến từ tháng Tám năm đó (1954), ông vừa kịp báo cho tác giả biết tin sách mới in xong, có thể đến lấy cuốn sách mẫu đầu tiên. Đó là nhà văn Trần Liên Hồ, năm ấy mới 15 tuổi, đã mạnh dạn đưa bản thảo cuốn tiểu thuyết đầu tay đó cho ông chủ NXB Quốc Việt nhan đề Cửa đóng then cài. Tác giả Trần Liên Hồ trước khi rời Hà Nội ra hậu phương (tháng Tám - 1954), đã may mắn hơn ông chủ xuất bản, lấy được cuốn sách mẫu đầu tiên ở nhà in, cũng rút ra khỏi Hà Nội cùng trong tháng Tám lịch sử ấy trước khi anh cũng rời Hà Nội... Cho nên khi ngọn lửa của nhà in bùng lên thiêu đốt cả đống sách mới Cửa đóng then cài thì cuốn sách mẫu đã cao chạy xa bay khỏi Hà Nội…cùng với người sinh thành ra nó. Tác giả của nó hẳn cũng truân chuyên lắm, nên 46 năm sau mới liên lạc được với ông Giang Quân, chủ nhà xuất bản, đã khai sinh ra cái tên nhà văn Trần Liên Hồ. Từ Trần Liên Hồ đến Trần Chinh Vũ với NXB Quốc Việt, rồi đến tôi (vẫn không thay đổi bút danh) đã trở thành hai gạch nối của hai thể loại văn học, từ vùng tạm chiếm đủ tiêu biểu cho hai cuộc đời nhà văn “sống lâu” cho tới bây giờ;  Giở cuốn kỷ yếu của Hội Nhà Văn, Trần Chinh Vũ hịện nay đã có tới 15 cuốn tiểu thuyết, hai tập thơ, một tập bút ký và khá nhiều giải thưởng, nhất là anh Trần Chính Vũ sau đó thành cán bộ, chuyên viên của công trình Thủy điện Sông Đà. Và tôi cũng quen biết anh ở ngay cái địa bàn chiến lược của đề tài công nghiệp, ngay sau khi tôi phải rời Hải Phòng sau 10 năm chia lửa, sau khi im tiếng súng tiếng bom ở cái nơi tôi (may mắn hay không may mắn: Cưới vợ được 1 tháng đã phải (hay được) thâm nhập vào một vùng công nghiệp tiêu biểu cho quân dân miền Bắc chống lại sự phá hoại bằng không lực và cả hạm đội 7 Mỹ. Cùng được tham gia ở nơi tiếp nhận sự viện trợ của quốc tế và là nơi đầu nguồn tiếp viện cho chiến trường phía Nam…Phải nói thực một điều: Tôi phải cố gắng thuyết phục nhà tôi (người con gái Hà Nội) vì cái nghiệp thơ và nhạc của chồng mình, mà được trưng dụng vào nơi “mũi tên hòn đạn”, như bao thanh niên trai tráng khác…để em cũng phải hiểu sâu sắc đó là chồng mình được tham gia làm nhiệm vụ với đất nước...      

Trở lại năm đó (1957) chưa có luật xuất bản mới, nên Đường vào tim nhanh chóng được in ra…Với hai ông anh, thơ tình chắc đã có sẵn trong sổ tay, nay chỉ cần điểm xuyết lại những gì còn lạc điệu, mềm yếu quá…, những bài chưa có tình tiết nào gắn với hoàn cảnh xã hội hiện nay…Còn tôi thì chưa có “thâm niên” loại thơ này nên phải vắt óc ra một số bài mới, để khỏi lạc điệu với bạn đọc, nhưng cũng là dịp để mở trái tim mình ra với các bạn cùng lứa tuổi đang yêu:

             Gần nhau non buổi chiều

             Ngẩn ngơ tròn buổi tối

             Đường về quên mất lối

             Rẽ lầm tới… nhà em

…Tập thơ in ra, có dư luận của bạn đọc phản hồi khá nhanh, vì đáp ứng đúng được sự mong mỏi của giới trẻ, như đang khát nước giữa đường mà được mời uống cốc nước…mưa.

            Trong tập Sương nắng đời người, tập hồi ký ông ghi lại cuộc đời ông từ thơ ấu cho đến năm gần đây, vì không muốn nhắc lại những chuyện riêng của mình, cho người ngoài đọc, nên ông chỉ cho in 30 bản dành cho mỗi thân nhân trong gia đình, nhưng nghề xuất bản sách, trình bầy bìa sách ông đã quen, nên khi tôi được tặng cứ ngỡ ông đã phát hành rộng ra công chúng Hà Nội. Sách in đẹp, dầy dặn, in typo, bìa màu có chân dung ông Giang Quân. Ông Giang Quân dành hẳn chương 13 cho Nghề văn - nghiệp báo. (mà đáng ra nghề và nghiệp của ông phải xuất hiện từ những chương đầu), ông mở đầu những dòng rất chân thực, nói về sự quyến rũ, đeo bám của nghề đó, nghiệp đó trong 65 năm cầm bút.

            Khi tâm hồn đã bị con nhện ấy giăng tơ, khó mà thoát ra được. Bởi vậy đành phải vinh nhục sống thác với nghề. Có điều mình bị các mối quan hệ hữu cơ của yêu cầu phục vụ do cơ quan đề ra mà không thể không làm theo, nên đã phá vỡ tính chuyên nghiệp, và đưa mình thành con “dao pha”, viết được nhiều thể loại, làm được nhiều bộ môn, nhưng chẳng thứ nào giỏi, chỉ thường thường bậc trung. Có nhà báo đã đặt câu hỏi: Bây giờ biết gọi ông là gì? Nhà văn, nhà báo, nhà biên tập, biên kịch, biên khảo, nhà văn hóa dân gian, nhà tuyên truyền cổ động, nhà tổ chức biểu diễn, nhà xuất bản phát hành sách…           

            …Kể lể như vậy để thấy, tôi không thể vượt lên cao được trên lĩnh vực nào là bởi yêu cầu của công việc. Ngay cả khi đã về hưu, tôi       vẫn viết khỏe, viết khỏe hơn cả những ngày tôi còn tại chức. Trong số cán bộ Sở Văn hóa Thông tin đã nghỉ hưu, có lẽ chỉ duy nhất mình tôi vẫn cộng tác với Sở Văn Hóa-Thông tin Hà Nội sau gần 15 năm cầm sổ hưu.      Giai đoạn 15 năm cuối đời này, thì tôi biết rõ ông hơn những giai đoạn trước, bởi ông không phải tổ chức những cuộc họp, những hội diễn, những bài báo theo kế hoạch, theo chức năng ông đã đảm nhận, mà tính cách ông tôi rất biết: Đã nhận là phải làm thật chu đáo, phải giầu sáng tạo. Đào tạo cán bộ cơ sở, mở lớp sáng tác cho huyện, xã cũng vậy, ông hết lòng, hết sức khiến nhiều đệ tử của ông trưởng thành, rồi được kết nạp Hội nhà văn VN không ít. Trong khi ông thày dạy họ thì chưa thể có tiểu ban nào của Hội Nhà Văn đứng ra giới thiệu. Bởi về thơ ư ? thơ ông thể hiện trong những vở kịch thơ thì khá chuyên nghiệp. Không có lỗi gì về câu cú, còn có nhiều câu hay là khác, nhưng đấy là thành tích trong vùng tạm chiếm. Còn thơ bây giờ, do ông hay phải viết nhanh những bài hát văn, độc tấu, chèo, ca dao theo một nội dung tuyên truyền của buổi diễn với ngôn ngữ bình dân nên dễ dãi đã thành quen…Giai đoạn 15 năm cuối, ông khỏi phải đi cơ sở, lại khỏi phải tổ chức những hội hè đình đám, những lớp đào tạo ngắn ngày. Là người ham công tiếc việc, nay ngồi một chỗ, ông cũng hay được mời  tham gia các công trình nghiên cứu, nhất là khi được đặt hàng những loại sách nghiên cứu về Hà Nội. Đọc những dòng ông tự bạch, ta thấy ông rất tự biết mình: ở vào hoàn cảnh phải đa năng, ông đã gắng để đáp ứng với cơ sở những buổi trình diễn văn nghệ quần chúng, chỉ cử đi vài ca sĩ, nhạc sĩ…ở mấy đoàn văn nghệ chuyên nghiệp ”làm mẫu” cho văn nghệ cơ sở. Nhưng giọng ca vàng cũng phải hát những bài ca có nội dung sát với hoàn cảnh, nơi đất đồng lam lũ.  Ông phải đặt lời cho diễn viên chèo, đặt lời hát văn cho cô Bạch Phượng, ngôi sao của làn điệu hát Văn thời ấy…Giang Quân thường hay nói đùa: Mình phải tham gia thập bát ban…võ nghệ. Người tài hoa như vậy mà không thể chuyên sâu một loại hình văn nghệ nào, bởi thời gian cứ bị xé nhỏ ra làm nhiều mảnh. Nay về hưu, lại  ngồi tĩnh tọa nghiên cứu sâu các vấn đề của Hà Nội…Loại công việc này lại tương phản với việc sáng tạo của một nghệ sĩ (?)        Sự nghiệp để đời của ông hóa ra lại là các công trình nghiên cứu về văn hoá, lịch sử Hà Nội: Thủ đô Hà Nội 1984, 2000,Hà Nội phố phường in và tái bản có bổ sung 1999, 2003, Dấu tích kinh thành ((1987-2004), Thăng Long Hà Nội trong ca dao ngạn ngữ. Ký sự, địa chí Hà Nội,1994.  Và cùng cộng tác với gần 100 công trình nghiên cứu với nhiều tác giả khác: Hà Nội xưa và nay, Tìm trong di sản văn hóa Thăng Long…Sự cần mẫn kiên trì của ông còn thể hiện trên bộ sách Những bông hoa đẹp , ông chăm nom suốt 18 năm liên tục, Giang Quân thật xứng đáng khi tên ông được xếp trong danh sách 10 công dân ưu tú của Hà Nội.        Giang Quân là một văn nghệ sĩ đa tài, đa năng, nhưng hoàn cảnh sống và tính cách ông không để cho ông chăm sóc riêng một khả năng nào,  không thể đẩy một tài năng nào của ông lên đến đỉnh. Về văn học, thơ ông thiên về ca dao, dù những bài ca dao của ông có nhiều câu rất trữ tình, bay bướm. Về báo chí, tản văn, văn ông rất trong sáng, ít lỗi. Ông vẽ cũng giỏi lắm chứ! Nhưng chỉ để ông tự trình bày những cuốn sách cho ông. Đặt lời ca cho những điệu hát văn dù làm nhanh theo yêu cầu, cũng không cho ta cảm giác ông là người ăn xổi chữ nghĩa…   Nhược điểm của ông tôi thấy nằm ngay trong ưu điểm: Đó là tinh thần trách nhiệm của ông rất cao. Ông biết điều đó, nhưng không thể thay đổi được. Thay đổi một lời hứa hẹn là thay đổi cả nhân cách người đó.    Tôi quen ông đã lâu, nhưng chỉ khi ông nằm xuống, tôi mới phát hiện ra điều này!  Tôi là chú em út của các nhà thơ trẻ thời ấy, (năm 1954, tôi mới 20 tuổi) coi ông Giang Quân như người anh cả của tôi, trước hết là về nhân cách!   

Nguồn: Tạp chí NV&TP                         

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *