Tác phẩm và dư luận

27/8
3:03 PM 2019

NGƯỜI ĐO THỜI GIAN BẰNG TÓC

(Đọc tập thơ MỘT MAI GIÓ CHỞ TÔI VỀ của Hoàng Vũ Thuật,

NXB Hội Nhà Văn. 2019)

TS. MAI BÁ ẤN

         Phải xin nói ngay rằng, với thơ Hoàng Vũ Thuật, giải mã “ẩn ngữ” một câu, một đoạn, một bài đã là chuyện khó. Giải mã một tập thơ để tìm “vệt đi đồng sáng tạo” lại càng khó hơn. Và tất nhiên, giải mã một đời thơ anh để tìm thi pháp tác giả cũng không hề là chuyện dễ dàng. Nhà thơ Thanh Thảo từng nói: Thơ “mãi mãi là bí mật”. Cái khó khăn khi đọc thơ Hoàng Vũ Thuật chính là ở đó! Cái hấp dẫn của thơ anh cũng chính là ở đó! Nó mãi mãi “vẫy gọi” người đọc hướng về phía mông lung của chữ nghĩa, nhiều lúc dễ làm người ta “quáng gà”, bất lực trước ma lực. Hơn cả những “khối vuông ru-bic”, tôi hình dung mỗi bài thơ anh như một cấu trúc đèn led hiện đại, nó tỏa ra muôn màu huyền ảo, đan xen sáng tối, đan xen sắc màu, trùng trùng những vùng tưởng tượng… Cứ như một con kỳ nhông biến sắc, lúc gặp sắc nghĩa này, hốt nhiên lại hiện trước mắt một sắc nghĩa kia, nghĩa thực - nghĩa ảo, nghĩa cụ thể - nghĩa mông lung, nghĩa phái sinh nghĩa, hình ảnh đan xen, nối tiếp hình ảnh...

“Một mai gió chở tôi về” của Hoàng Vũ Thuật đa dạng về nội dung, mỗi nội dung lại đa nghĩa, đa tầng, luôn gọi mời người đọc. Đó chính là sức gợi của lý thuyết liên văn bản (intertextuality) mà mỗi bài thơ tự mở ra. Từ dòng sữa của ca dao - dân ca: dòng sữa ngọt vành môi sinh nở/ cánh cò vẽ khung trời bình yên/ từ tay chị bước ra (Dòng phấn trắng) đến truyền thống cha ông “Đầu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên”, cọc gỗ Bạch Đằng, sang hoang đường cổ tích: tôi đã gặp chú gấu thò ra trong cổ tích/ chùm chìa khóa rơi vào chốn hoang đường (Cơn ghen của bầu trời)..., rồi mênh mông buồn tràn qua tiền chiến với Lưu Trọng Lư ngơ ngác nai vàng và nhạc hậu chiến một thời bế tắc của Trịnh Công Sơn: rừng xưa đã khép lá xưa đã úa/ tiếng nai hay/ tiếng người/ lửa muốn bén vào thu (Nai vàng)… Không dừng lại ở đó, thơ anh còn như con sóng lan tỏa sang cả những liên văn bản của văn học thế giới như Quách Mạt Nhược, Victo Huygo, Sêch xpia, Drunvalo Melchizedek, Eptusenko, Pautopxki và đến cả bức ảnh bác sĩ trẻ Piter, người Cu Ba, lấy đầu bịt họng súng…

       Trong thơ Hoàng Vũ Thuật có cả Phật từ bi - hỉ xả - trọng tình, u u tiếng kệ lời kinh vang xen trong tán lá bồ đề thâm mật: ta muốn quay ngược đài hoa/ tìm mùi thiền/ cửa từ bi rộng mở/ những cánh thơm ứa mật (Ý nghĩ ngược), có cả Chúa nhân từ - đầy quyền lực với thánh đường vút nhọn tháp chuông, với những khung cửa mơ màng: trái tim vắng thánh đường sau hồi chuông vỡ/ vết mực loang trên tà áo trắng/ có gì vẹn nguyên/ có gì dừng lại (Nghịch lý); trong hoàng hôn cuộc đời gãy cánh/ hai tay đóng đinh trên thập giá của mình (Người hành khất)… Nhưng dẫu là Chúa hay Phật thì thơ Hoàng Vũ Thuật vẫn quy về một cõi Thiện, cõi Thiền với triết lý và tư tưởng nhân văn cao rộng: tôi thức giấc sau niềm hạnh phúc/ câu kinh hay câu thơ/ thanh/ trong/ hoa có thì/ nở trên trang sách bàn tay (Những ghi chép cần thiết). Dù sinh trưởng trên vùng đất Quảng Bình, thơ Hoàng Vũ Thuật vẫn ngợp một sắc “cỏ xanh” chống chọi cùng gió cát: tôi ôm hoa/ hướng về những mũi tên tẩm thuốc/ của linh hồn mục rửa/ kẻ ganh tị bắn vào tình yêu/ tôi nghe lá rụng rơi/ trên thảm cỏ/ hàng cây rung sau lần tróc vỏ (Rừng sao không tắt), theo nhịp ca của tiếng dế giun: ý nghĩ đứng bên nhau thánh thiện/ ngân khúc ca của loài giun dế (Ý nghĩ ngược) cùng những “sợi chỉ khâu” vá víu cuộc đời: câu thơ dài như sợi chỉ khâu áng mây vỡ/ sau vòm cao chiều muộn (Biến tấu)… Có những “chiếc mỏ neo” neo thơ vào cuộc sống: câu thơ dở dang neo trên giấy trắng/ áng mây hay cánh buồm trôi/ mắt em ngấn sóng (Ngấn sóng), có anh… như một “mặt trời cô độc” đợi bên sông: những buổi chiều những buổi chiều buồn/ mình anh qua đây/ nhịp cầu nối nhau dằng dặc/ bóng trôi/ lạc/ lỏng/ giữa dòng/ mặt trời cô độc đứng đợi bên sông (Mặt trời cô độc)… Có những “hoài nghi thân phận”, đôi khi dù anh là nhà thơ hay tên trộm/ không thoát khỏi tiềm ẩn các nguy cơ/ muốn mình là mình/ cũng không được (Mặc định). Nhiều lúc thấy con người cứ lạc lỏng, bơ vơ trước dòng trôi thời gian, dù mình là hiện hữu của tiền thân “bốn nghìn năm trước” hay trở thành hậu thân là “kẻ khác” của “bốn nghìn năm sau”: nhiều khi ngỡ mình đã biến khỏi bốn nghìn năm trước/ thành kẻ khác bốn nghìn năm sau (Thượng đế). Và thân phận của kiếp người đang “cuống cuồng”, “thảng thốt”  bất an giữa “cuộc đời cứ mong manh trôi nổi”: rồi em cuống cuồng chợt nhớ chợt quên/ thảng thốt như căn nhà bốc cháy/ ngày ấy giờ ấy năm ấy/ cuồn cuộn sôi từng đợt sóng chẳng dừng/ sao cuộc đời cứ mong manh trôi nổi/ em hay là lá cuối thu đây (Cuộc đời cứ mong manh trôi nổi). Môi trường sinh thái tự nhiên đang ngày càng bị con người tàn phá một cách chẳng tiếc thương:

Liệu mùa thu có phẫn nộ và cho rằng: con người sao ngớ ngẩn dám đem mình để sánh với thiên nhiên, với cả vũ trụ sinh thành, cô kết.

Đã rất lâu, rất lâu tôi muốn ngỏ với thiên nhiên huyền diệu ấy. Tôi tin sự huyền diệu của thiên nhiên sẽ hiểu tôi một cách lặng lẽ, tường tận, mà giác quan người đời không tài nào cảm nổi

(Mùa thu ơi)

         Chính vì thế, không gian nghệ thuật thơ Hoàng Vũ Thuật thường từ cụ thể với gió cát hằng ngày rồi theo gió bay về phía mênh mông, vô cùng của vũ trụ. Thời gian nghệ thuật cũng mở ra đến vô hạn lượng; từ hiện tại, ngược về quá khứ, hướng thẳng đến tương lai những mấy nghìn năm: một buổi sáng cuối năm 3017 ông được hồi sinh/ khi tạo hóa muốn cho ông làm người (Hồi sinh)...

*

       68 bài thơ trong tập “Một mai gió chở tôi về” hiển hiện phận số mong manh, tuyệt cùng của kiếp người trước dòng trôi bất tận, bàng bạc thi ảnh những sợi tóc bay theo con gió vô thường. Cơ hồ như Hoàng Vũ Thuật đang đo không gian, đếm thời gian bằng tóc. Vì thời gian và không gian luôn là một cặp song trùng.

       Đó là thời gian tràn đầy “sự sống” với những “nụ biếc” bật dậy vào “mỗi ban mai”. Nhưng “sự sống” thực tại không chỉ của thực tại mà còn được thi sĩ nối về tận thế kỷ xa xưa, lúc “thằng gù nhà thờ Đức Bà Pari” “nặng nhọc hồi chuông nhà thờ nguyện”. Ban mai của nụ biếc hôm nay bật lên “sự sống” hay chính hồi chuông của thế kỷ xa xưa làm “run rẩy sợi tóc” thời gian! 

anh tin em mỗi ban mai bật thêm nụ biếc

run rẩy sợi tóc

hồi chuông nhà thờ nguyện

Quasimodo

nặng nhọc

kéo

thế kỷ trước

(Sự sống)

       Nhà thơ như đang đếm bước mình trong một không gian hẹp quanh khu phố, con đường dẫn đến “nhà em”. Nhưng không! Đâu chỉ có không gian dãy phố mà Hoàng Vũ Thuật còn mở rộng các chiều kích của không gian và xen kết không gian thực với không gian ảo:

hết dãy phố này là nhà em

hết mặt trời này là vòng xoay của trí tưởng tượng

hết mái tóc này là ngọn đồi bạch dương

trong rừng có loài linh điểu

(Trí tưởng tượng)

          Trong không-gian-tóc-em có một con chim cụ thể đang hót hay chính là con-chim-thời-gian mãi hót! Có lẽ là cả hai, vì tiếng chim hót ấy “sẽ khôi phục ánh sáng ngày rút từ đêm xõa trắng” để rồi cả Đại vũ trụ (mặt trời) thu về trong Tiểu vũ trụ (mắt em). Và cái Dasien thời gian “nhận ra tôi” hiện lên đầy bí ẩn trong sat-na chỉ “một búng tay”, chỉ trên không gian hẹp của “chiếc gai nhọn” cũng đủ mở ra cả một cuộc hành trình:

có một con chim trên tóc em vẫn hót

mặt trời khôi phục ánh sáng ngày

rút từ đêm xõa trắng

mặt trời trong mắt em bừng thức

bấy giờ mới nhận ra tôi cùng cái bí ẩn từ một búng tay

em nói cuộc chạy trốn trên những chiếc gai nhọn

đã kết thúc

(Sự nhầm lẫn của người đãng trí)

          “Tóc em” hẳn còn xanh trong “ánh sáng ngày”, nhưng “ánh sáng ngày” lại là kết quả “rút từ đêm xõa trắng”. Hoàng Vũ Thuật đã đem cái cụ thể đang hiện tồn để đo đếm những dự phóng trùng trùng vô lượng, vô biên. Âm âm trong ta ý tưởng của M.Heidegger: “Con người không sống trong không gian và cũng không sinh hoạt trong không gian mà chính đời sống sinh hoạt của Dasein (cái đang hiện hữu/hiện thể) đã phát sinh ra không gian và thời gian. Nó phát sinh ra không gian, bởi những ý niệm căn bản nhất của không gian, như trước - sau, trong - ngoài, v.v.. đều xuất phát từ con người và nếu không có con người là trung tâm với những ý niệm thì tất cả những khái niệm không gian và thời gian đều mơ hồ, nếu không muốn nói là vô nghĩa” (Trích theo Nguyễn Lê Thạch, Tồn tại và thời gian, doc.edu.vn). Theo triết lý Âm Dương Ngũ Hành của phương Đông, con người là một Tiểu vũ trụ (trung tâm vũ trụ), cho nên con người thường lấy Tiểu vũ trụ (mình) để đo không gian (lấy thốn ngón tay mà đo) và đếm thời gian (lấy đốt ngón tay mà đếm) Đại vũ trụ. Sự gặp gỡ Đông - Tây trong thơ Hoàng Vũ Thuật chính là như thế! Đơn vị nhỏ nhất người xưa dùng để đo đếm không gian, thời gian chính là đốt ngón tay (thốn), đến thời hiện đại, Hoàng Vũ Thuật đã rút về chỉ còn là sợi tóc.

Đọc thơ Hoàng Vũ Thuật, ta luôn bắt gặp những ngọn gió không gian bay qua, những cánh chim thời gian chao trên mái tóc giữa Dasein đang hiện hữu (em đã đến) để nối “nghìn kiếp trước cho nghìn kiếp sau”:

em đã đến

rất có thể em sẽ vuốt tóc anh như gió vuốt nhọn những cánh chim

về miền cô tịch

ta lại chuyền hơi ấm của nghìn kiếp trước

cho nghìn kiếp sau

nói lời tiễn biệt

bây giờ mọi thứ không còn ý nghĩa

(Phiến hoa hồng trầm cảm)

      Chỉ ba câu thơ dưới đây thôi, đã cho ta cái cảm giác ngẩn ngơ giữa một không gian Hà Nội bao la và cả thời gian hơn một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội, một không gian đầy hoa sữa đang hiện hữu và tỏa hương qua cái sat-na cụ thể “vốc ngụm hương thả vào mái tóc” của phút yêu đương “ngày ấy”:

vốc ngụm hương thả vào mái tóc ngày ấy

Hà Nội chờ ai

sao hoa cứ thơm nồng

(Hoa sữa đầu mùa)

Đọc đến câu thơ: “những con thằn lằn chui vào tóc”, nhiều người sẽ không khỏi buột miệng cười hoặc thốt lên “thơ với thẩn”. Vì “con thằn lằn” chui vào tóc chỉ khiến con người ta giật mình hoảng sợ, vì nhà thơ đã đem cái thô thiển, quái dị “chui vào” cái đẹp biểu trưng. Đúng là đáng giật mình. Nhưng ta đang giật mình vì chợt ngộ ra rằng, cái tiếng Thạch sùng (Thằn lằn) chắc lưỡi trong không-gian-đêm trên mái nhà ta đang ngủ chính là chiếc-đồng-hồ-đo-đếm-thời-gian cả một kiếp người. “Khoảnh khắc mặt trời tô son lên môi” (người đẹp đang trang điểm!), “từng sợi tóc ướt” mỏng manh, bé nhỏ kia đã mở ra cả không-gian-thế-giới mênh mông “đổ về cánh rừng nước Ý” làm “tan chảy” lòng người, “cứu rỗi” đời người trước những cái đẹp của thời-gian-cổ-xưa:

những con thằn lằn chui vào tóc

trong khoảnh khắc mặt trời tô son lên môi

từng sợi tóc ướt

đổ về cánh rừng nước Ý

mọi thứ khởi đầu nhẹ nhàng của hơi thở

sự lặng im cứu rỗi

tan chảy

(Nơi bức tường cổ xưa)

          Sợi tóc là một hình ảnh cụ thể, mỏng manh. Người ta thường nói: ranh giới giữa những cái tưởng chừng đối lập chỉ cách nhau một sợi tóc. Dừng lại là thiện, vượt qua là ác. Hoàng Vũ Thuật lại đo thời gian vô lượng kia bằng sợi tóc mong manh thì quả là thơ anh cứ phơ phất, mong manh như gió, vẩn vơ như mây bay, bất định giữa trời: không ai theo hết/ những áng mây đang bay/ những con đường chưa tới/ lặn tận đáy hố đen sâu thẳm/ nhưng anh tin chẳng hố đen nào hút được/ khi anh từ đó bơi ra (Phục hưng). Anh hiểu cụ thể từng bước đi của thời gian khi “đồng hành với nó”. Nhưng khi “anh đã vượt lên bỏ lại phía sau những sợi rụng”, anh vẫn biết “thời gian không chết”, vẫn “trẻ trung như gió” và nhận thấy gương mặt nó rất hiền:

đang đo thời gian bằng tóc

anh hiểu bước chân thời gian

khi anh đồng hành với nó

khi anh vượt lên bỏ lại phía sau những sợi rụng…

…nhưng thời gian không chết

trẻ trung như gió như ánh sáng dịu dàng

thời gian mải miết một chiều

anh nhận ra thời gian với gương mặt rất hiền

chẳng khác gì đàn bướm trắng

(Thời gian)

Nghĩa là cái Dasien hiện có của thời gian luôn được nhà thơ nắm bắt, để từ đó nghiệm ra ý nghĩa thời gian. Xưa nay có mấy ai nhìn được gương mặt thời gian, nhưng với Hoàng Vũ Thuật, gương mặt ấy hiện hiện rất rõ ràng như “một đàn bướm trắng” đang bay giữa không gian vườn xuân - vườn của cuộc đời. Thời gian nghệ thuật của thơ Hoàng Vũ Thuật luôn luôn gắn chặt với không gian. Khi anh nói “giết thời gian bằng tóc” đưa ta đến cảm giác nhận diện của màu (từ xanh sang bạc), nhưng khi anh ném sợi tóc kia vào “khoảng không ngu ngốc” thì “không gian ngu ngốc” lại hòa trộn với “thời gian đương thì” (cái hiện hữu) và nối cả với “thời gian thao thức” (cái khả hữu):

họ cho anh ác độc giết thời gian bằng tóc 

ném vào khoảng không ngu ngốc

ném vào thời gian đương thì

hay lúc thời gian thao thức

đếm từng ngọn đèn vàng trong khuya

(Thời gian)

M. Heidegger quan niệm: Để đạt được cái khả hữu, con người phải tự vượt qua hiện hữu của chính mình; tự bỏ lại cái hiện nay của mình để vươn tới một hiện hữu ẩn hiện trước mắt - khả hữu (sein-koennen, pouvoir-être). Hoàng Vũ Thuật đã “dự phóng” (project) về sự hiện-sinh-đích-thực-phía-trước, nên khi “thảng thốt” nhận ra “thêm một sợi tóc cuối chiều” rơi xuống, anh không bế tắc, chán chường mà “kiêu hãnh nhặt lên như một chiến tích” của chính mình:

thêm sợi tóc cuối chiều thảng thốt rơi

tôi kiêu hãnh

nhặt lên

như chiến tích

(Chiến tích)

Viết về người thân (cha, mẹ…), thơ ca Việt thông thường miêu tả họ là những người nông dân chân thật, cần cù, chịu thương chịu khó một cách giản dị, đơn nghĩa. Nhưng với Hoàng Vũ Thuật thì không. Cái Dasien “cha vội vã ra đi rời khỏi ngôi-nhà-nước-mắt khi con mới lên hai” đã ám ảnh nhà thơ suốt mấy chục năm trời, vì thế anh cảm nhận về cha một cách khái quát hơn bằng những biểu trưng để ai cũng nhận ra rằng, dù đã rời xa trần thế bấy nhiêu năm, cha vẫn đang hằng ngày dìu từng bước anh đi, nâng cánh cho anh bay vượt qua muôn trùng “núi đồi”, “mây bạc”, vươn đến những “vì sao lấp lánh” và nhận ra những chân lý trên đời cho dù anh “không thể hình dung ra gương mặt” người cha ấy:

không thể hình dung ra gương mặt cha

người mang tình yêu vĩnh hằng giáng thế

con có thể ngắm cha qua dải ngân hà

qua tinh thể cát

nâng đôi bàn chân

lớn khôn

(Phụ bản cát)

Và chính cha chứ không phải đấng tối cao nào khác đã “lấy hai cánh tay” trần thế của mình “cắm xuống bão giông” “cho con đứng thẳng” làm người. Chính cha là Thiên-Chúa-Trần-Gian đóng đinh trên “cây thập giá” nâng đỡ cả cuộc đời con:

cây thập giá mọc từ hai cánh tay

như ngọn sào cắm xuống bão giông

cát cho con đứng thẳng

trong ánh sáng thiên thần thiêng liêng

(Phụ bản cát)

Rồi cái phút giây “những bức ảnh lưu trong trí nhớ”, trong không gian “bầu trời dày sương”, qua thời gian đã “phủ lớp bụi mờ” giữa dòng đời “tứ phía xoay tròn” đầy biến động lại là cái vĩnh viễn hiện tồn: “bức ảnh vẫn đứng yên, lóe sáng từng tia chớp dán trên tường xanh bầu trời” cho dù những bức ảnh ấy không biết “bây giờ đang ở đâu” trước “mùa đã chuyển, ngày đã mới”:

những bức ảnh biết nói

bây giờ đang ở đâu

ở đâu

mùa đã chuyển

ngày đã mới

anh vẫn hình dung bức ảnh đứng yên

anh vẫn thấy bức ảnh lóe sáng từng tia chớp

dán lên tường xanh bầu trời

(Những bức ảnh lưu trong trí nhớ)

Vì vậy, trong sáng tạo thơ ca, anh luôn xuất phát từ “một cái cây ra đi” chẳng biết “phương trời nào đón nhận” (Hoài nghi: tồn tại hay không tồn tại?) cho đến lúc “ánh nắng làm thước kẻ dòng… trên tấm ván cùng những trang phác thảo” hình thành. Anh đi từ sơ khai “thứ ngôn ngữ nằm im mang dáng bào thai” đến “âm tiết đầu tiên là tiếng khóc chào đời” giữa “cuồng phong hoang dã”, đến “dấu chấm hết” rồi “dấu chấm nữa” (…) để hình thành bài thơ “ký thác cuộc đời”:

một cái cây ra đi

phương trời nào đón nhận

làm sao biết được số phận mình

tồn tại & không tồn tại

 

đứa con tưởng tượng tôi ơi

thứ ngôn ngữ nằm im trong bào thai của mẹ

âm tiết đầu tiên

là tiếng khóc chào đời

đã ngập chìm cơn cuồng phong hoang dã

 

dấu chấm hết rồi tiếp dấu chấm nữa

ánh nắng làm thước kẻ dòng

tôi ký thác cuộc đời

trên tấm ván cùng những trang phác thảo

(Chiến tích)

Anh đã đi từ hiện-sinh-không-đích-thực (“tồn tại & không tồn tại”) đến cái hiện-sinh-đích-thực-phía-trước khi sáng tạo những bài thơ “ký thác cuộc đời”. Nhưng  “chiến tích” đâu chỉ dừng ở “tấm ván những trang phác thảo” ấy? Khi thấy “một cái cây ra đi” để hình thành nên “tấm ván cùng những trang phác thảo”, những tưởng nhà thơ đã đặt “dấu chấm hết” ở đó rồi. Nhưng không, anh lại thêm dấu “chấm nữa” (…) trên “những phác thảo trên tấm ván” kia để “một mai tôi sẽ là cây” với những rễ cây như “mười ngón chân đi xuyên lòng đất”, như “chú dế mèn” hát ca nhiều cung bậc, như “kỳ nhông” đổi sắc và tạo nghĩa mới cho “loài sâu đêm cùng mở hội phong cầm”:

một mai tôi sẽ là cây

mười ngón chân đi xuyên lòng đất

hệt chú dế mèn

đám kỳ nhông mùa nắng đổ

loài sâu đêm đêm mở hội phong cầm

(Chiến tích)

Hiện hữu của anh là “em”, nhưng “cuối con đường” hiện hữu của hai ta thì “dòng sông” là khả hữu, khả hữu của “dòng sông” là “cánh rừng”, khả hữu của “cánh rừng” lại là “chập chùng núi biếc”, khả hữu của “cuối con đường trước anh và em có hai người thao thức - hai dãy ngân hà loáng thoáng vừa lên”:

nhưng với anh em là hiện hữu

như cuối con đường sẽ gặp dòng sông

như qua sông sẽ gặp cánh rừng

như hết cánh rừng chập chùng núi biếc

như cuối con đường trước anh và em có hai người thao thức

hai dải ngân hà loáng thoáng vừa lên

(Cuối con đường)

Và cuối cùng, cái khả hữu chính là sự bất tử của một tình yêu vĩnh cửu:

em phủ lên người anh mái tóc thơm mượt óng

hóa thành đất ấm

đắp cao nấm mồ tình yêu

(Cuối con đường)

Ta có cảm giác, thơ Hoàng Vũ Thuật cứ sau “dấu chấm hết” là “dấu chấm nữa” (…). Đây chính là những đường-bay-nghệ-thuật độc đáo của thi pháp Hoàng Vũ Thuật khiến cho bài thơ mọc cánh (dự phóng) cùng “bay như lũ bướm ven hồ” về một hiện-sinh-đích-thực-phía-trước:

nơi em vẫn ngồi cùng câu thơ mọc cánh

chúng bay như lũ bướm quanh hồ

em đã đọc lúc vắng anh

giữa bầu trời lạnh buốt

(Giả sử)

*

Cũng như các tập thơ khá nổi tiếng trước đó của anh, còn rất nhiều chuyện để nói về “Một mai gió chở tôi về”, nhưng thôi, sức người có hạn, tôi thành thực thưa rằng: những cảm nhận của tôi trong lời giới thiệu này cũng chỉ là một sat-na biến sắc của con kỳ nhông thơ đa dạng Hoàng Vũ Thuật mà thôi. Không biết trong những người “bạn” mà Hoàng Vũ Thuật “biết… đã tìm ra chân trời” là “cái đường viền cô đơn níu lòng người ở lại” ấy, có sự hiện diện của người viết bài này hay không? Nhưng không sao! Vì theo anh: Có những điều ta “không thể viết ra bằng chữ”:

Không thể viết ra bằng chữ

ý tưởng trong những áng mây khi thấy khi không

chập chờn giấc ngủ muộn

những hòn sỏi trắng

nhặt lên

&

ném

 

nhưng tôi biết bạn đã tìm ra chân trời

cái đường viền cô đơn

níu lòng mình ở lại

(Có thể là một bài thơ)

          Thơ là sản phẩm của sự tột cùng đơn độc của nhà thơ, nhưng cũng chính thơ đã giúp con người “tìm ra chân trời” và “níu lòng người ở lại”. Xin cảm ơn thơ, cảm ơn Hoàng Vũ Thuật. Và vui mừng giới thiệu tập thơ “Một mai gió chở tôi về” cùng bạn đọc gần xa...

                                                                                                            Làng Yên Phú, Quảng Ngãi, Hạ 2019

                                                                                                                             MAI BÁ ẤN

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *