Tác phẩm chọn lọc

9/7
9:08 AM 2016

TRANG THƠ HOÀNG HỮU

Ngày 10/7/2016, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức lễ ra mắt tập sách Hoàng Hữu-Tác phẩm nhân kỷ niệm 35 năm ngày mất và 70 năm ngày sinh của cố họa sĩ-nhà thơ Hoàng Hữu (1945-1981). Vanvn.Net xin trân trọng giới thiệu trang thơ của ông, trích trong gần 100 bài thơ ở tập sách này.

                                                                                         Chân dung tự họa của họa sĩ, nhà thơ Hoàng Hữu

Hai nửa vầng trăng

         

Tình cờ anh gặp lại vầng trăng

Một nửa vầng trăng thôi, một nửa

Trăng vẫn đấy mà em xa quá

Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên.

 

Nắng tắt đã lâu rồi, trăng thức dậy dịu êm

Trăng đầu tháng có lần em ví

Chữ D hoa như vầng trăng sẻ nửa (*)

Tên anh như nửa trăng mờ tỏ

Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời.

 

Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi

Trăng say đắm dào trên cỏ ướt

Trăng đầu tháng như đời anh chẳng thể nào khác được

Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết

Em đã khóc

Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát

Em đã khóc

Nhưng làm sao tới được

Bến bờ anh tim dội sóng không cùng.

 

Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh

Cứ một nửa như đời anh, một nửa

Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ…

 

Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ

Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau.

                                                         

                                                          8-1981

-----

(*) Hoàng Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Dũng

(Bài thơ “Hai nửa vầng trăng” được trao giải nhì cuộc thi thơ báo Văn Nghệ-HNV năm 1982)

 

Tháng Giêng, chiều đất bãi

 

Tháng Giêng, chiều đất bãi

Lượn thầm ven bờ đê

Đất màu đang vào ải

Đã lay phay mưa về.

 

Giờ này ngoài chân tre

Măng thầm thì mở đất

Sóng à ơi bãi mật

Đấy lời ngô bồng con (*)

 

Đất hồng hào bến sông

Em ra lò gạch chín

Cánh buồm vừa đến hẹn

Vẫn nâu sồng sắc quê

 

Rét ngọt chừng chưa qua

Tần ngần trong ruộng mía

Còn băn khoăn chi nữa?

Cây đã đầy mật thơm.

 

Cành gạo cao đầu thôn

Vẫy người đi trả phép

Nhấp nhô như lộc biếc

Xanh xanh chiều tháng Giêng

 

Lặng thầm trải bao đông

Xoan gầy như dáng mẹ

Rễ tảo tần chắt nhựa

Thương dồn lên búp non.

 

Khói trầm trên mái rơm

Phải lời cha dặn dẽ?

Đất ông bà cội rễ

Suốt đời thương cháu con.

                  

Bích Chu, 1975

-----

 (*) Mượn chữ của Vũ Đình Minh

 

 

                    Mỉm cười trên giấy điệp

 

Dường như từ trăng kia các em xuống tắm hồ

Màu ngà ngọc tròn đầy da thịt

Dường như các em nở ra từ nước

Mát tươi tơ ngó ùa lên.

 

Suốt một ngày tay cuốc tay liềm

Giờ khỏa nước ngón xòe nõn búp

Trăng loáng chảy ướt ròng khuôn ngực

Chút ngập ngừng cong lẳn sáng bờ vai

 

Tay vin cành, hoa đấy, áo người đâu?

Cổ ba ngấn ngẩn ngơ chiều hương lúa

Màu đen thẳm tóc mây lại tỏa

Hương thầm thì mờ tỏ đêm sen.

 

Sóng dào lên sáng ánh tay em

Là vũ điệu dân gian của tảo tần bận mọn

Được buông thả hết mình cùng cỏ cây ngợi sáng

Được thật với chính mình nào dễ đâu em.

 

Họa sĩ dường nhập cuộc với thiên nhiên

Màu thuần phác đồng quê tươi mới mãi

Hồn dân dã tổ tiên trao gửi

Qua nét khắc mộc thô trên vân gỗ lượn bày.

 

Anh trân trọng truyền lên mặt giấy

Nét mỉm cười sau những giọt mồ hôi.

                                              

                                                3-1981

 

 

Không đề I

 

 

Ngày không em chiếc ghế vẫn bên hồ

Thời gian chảy tháng ngày trên mặt đá

Lúc đến bên em, hồ thành xa lạ

Chuyện đời mình làm đá cũng ưu tư…       

 

                                                1974 

Thị xã không em

                                     

Gửi Minh

 

Anh về. Phố xá lặng yên

Vườn thưa nắng rụng sóng im đáy hồ

Chiều xanh xanh đến thẫn thờ

Không em. Liễu cứ bên hồ đợi anh

                                     

Vĩnh Yên, 1974

 

Năm ấy hoa bìm

 

Xin bạn đọc quên điều đã đọc

 

Năm ấy hoa bìm tím thế này không?

Tôi chợt hỏi, hoa ơi đừng lạ nhé

Chiều xuống chạm ngọn cây thong thả

Lòng rưng rưng trước sắc thắm hoa bìm.

 

Trên đỉnh ngàn thước này tôi đâu ngỡ gặp em

Rừng thảng thốt hơi mưa hơi nắng

Hoa mỏng mảnh như xưa buông trên tầng đá xám

Ẩn chút buồn sâu kín mới phôi pha.

 

Ngỡ cánh hoa trong nhật ký đã khô

Dòng chữ khắc trên tường rêu phủ

Trời đăm đắm mười năm nguyên khung cửa

Sao còn lay động mãi cánh hoa bìm

 

Mây núi xòa chông chênh hơi rượu tan

Hoa thắm lại, chiều dễ gì tắt được

Câu thơ cũ đầy nguyên lại rót

Năm ấy hoa bìm tím thế này không?

                  

Tam Đảo, 1976

 

Phong thư cuối ngày

 

Suốt tuần anh đau ốm

Em xa chưa kịp về

Cửa phòng thường chẳng đóng

Đếm tiếng bàn chân qua.

 

Cơn sốt vừa nguôi đi

Cây xòa vào cửa sổ

Nắng nguội nhòa mặt lá

Thoảng hơi may bên trời

 

Chừng biết anh trông đợi

Phong thư em cuối ngày

Lá chở chiều thu tới

Đậu xuống lòng bàn tay.

                  

Trung tâm cấp cứu bệnh viện Việt Trì, 8-1981

 

Đêm ven sông

 

Đêm yên lành, đêm như bao đêm

Bếp nhà ai cay cay mùi khói

Ngọn lửa có điều chi như muốn nói

Với người nào xa lắm phải không em?

 

Ếch kêu hoài rộn rã một mùa chiêm

Lúa trăn trở ngoài xa đồng năm tấn

Con tu hú đang gọi mùa vào nắng

Nghe thóc vàng rực rỡ sân phơi.

 

Sóng ngoài xa cần mẫn đầy vơi

Lớp sóng đỏ nói những lời giản dị

Cả một đời phù sa không ngơi nghỉ

Vất vả yêu thương bên lở bên bồi.

 

Sau gian nan vẫn đều đặn tiếng còi

Tàu ngược xuôi đâu quên chào xóm nhỏ

Đêm ven sông bỗng sao mà thương nhớ

Nửa nước mình súng nổ sáng đêm thâu.

 

Đêm yên lành và đêm rất sâu

Thương đất nước mấy ngàn năm chưa nghỉ

Vẫn thao thức bình minh trong mắt ngủ

Hoa gạo bồi hồi cháy mãi một ven sông...

 

                             Chí Chủ tháng 4-1970

 

 

Ngọn gió qua làng

 

Có thể nào vùng đất bãi vắng em

Vắng ngọn gió qua làng không nhìn thấy

Thì anh biết làm sao hương thức dậy

Tự trong lòng hoa đi.

 

Nụ hoa xòe lấm tấm giêng hai

Hương chanh thức vườn nhà đêm trở rét

Bóng mẹ gầy, gió vào lay lửa bếp

Hương thầm len từng mũi kim khâu.

 

Gió qua làng, gió chẳng dừng lâu

Cũng phảng phất cái duyên đất ải

Nghe tiếng em, anh biết gió vòng qua mé bãi

Ngan ngát đường xoan hoa.

 

Tháng Năm, ngày dằng dặc lưng đê

Dây điện dăng dăng nở từng bông sứ trắng

Ngọn gió thổi những ngày hoang vắng

Về dạo đàn vui xóm đê ta.

 

Đến với làng gió lại đi xa

Đồng đất nhớ cái heo may, nhớ thế!

Sắp tết rồi lại xạc xào tiếng mía

Khói mật lò gió đến cũng thành hương.

 

                                      Yên Lãng, 9-1973

 

Một vùng mía bãi

 

Sau bao ngày nhớ mong

Anh lại về đất bãi

Se se trời gió thổi

Thênh thang triền mía xanh.

 

Vắt ngang mùa heo hanh

Mía chật đường đá trắng

Nắng sau mưa chín ửng

Mát thơm mùi rượu cay.

 

Gặp gió đùa trong cây

Mách anh người hay hát

Ngọt lừ dao em chặt

Hương dâng đầy đôi tay.

 

Mùi men, mùi men say

Mía thơm ra tận vỏ

Theo em về cuối ngõ

Nón trắng chìm sau cây.

 

Ơn mật vàng lòng tay

Uống từng trưa nắng rát

Đất, em bồi ấm gốc

Lặng từng cơn bão tan.

 

Heo may chừng đằm hơn

Nối thêm từng đốt mía

Tối ngày em bóc lá

Tay bồi thêm lớp chai.

 

Nắng cuối chiều vàng khay

Lại xa miền đất bãi

Cầm tay, thương, chẳng nói

Ngọt ngào dăng bốn bên.

 

                             Vĩnh Thịnh, tháng 9-1976

 

 

Trống đồng trên đất đai truyền thuyết

 

Trống đồng sau lớp đất vùi

Vẫn ban mai một mặt trời đang lên

Nét cổ sơ vẫn tươi nguyên

Khi bay vút lại thanh mềm nét buông.

 

Vua tôi cày cấy ven sông

Con cò lặn lội bạn cùng hôm mai

Chày khuya thậm thịch đêm dài

Hội mùa trăng đã xế ngoài mái hiên.

 

Một thời trai gái trao duyên

Chiếc vòng tay với chiếc khèn làm tin

Đêm dựng nước sáng tiếng chim

Bay trên chớp lửa hót trên núi Hùng.

 

Một thời giặc giã khôn cùng

Trống đồng giục mũi tên đồng vút lên

Sóng tung lấp lóa chiến thuyền

Sông sâu từng đã nhấn chìm giặc tan

Chiêm mùa lúa cháy thành than

Đá thương người đá bồng con ngắm chồng.

 

Lưỡi gươm khắc tấm gương chung

Con voi phản phúc tìm dòng máu loang

Cho liền mạch đất cha ông

Mái tranh kề mái cây chung đất dầy.

 

Ơn người thợ khéo bàn tay

Ngày đêm tâm huyết dồn đầy nét hoa

Trải bao hưng phế chẳng nhòa

Nét ăn ở với cửa nhà riêng chung

Ngỡ trên mặt trống còn rung

Tiếng xưa xa vọng đền Hùng hôm nay.

 

Ngoài thung lúa chín như say

Kìa con chim lạc trắng bay trên đồng.

                            

Đền Hùng, 1978

 

          Mẹ tôi

 

Xe con qua làng cũ

Chẳng thể dừng mẹ ơi !

Vẫn con đường đất đỏ

Khói lên xanh chân đồi.

 

Đã sang năm thứ mười

Con chưa về gặp lại

Mẹ ơi! Vườn chè tươi

Lòng tay con thơm mãi.

 

Nhớ ngày con ốm dậy

Cơm chẳng có gì hơn

Mẹ kho niêu tép mại

Còn giã thêm cối vừng.

 

Con đã qua bao rừng

Mùa khô lòng suối khát

Lại thương giếng đồi mình

Nước sâu hơn chục thước

Chiếc cần chưa kịp buộc

Mẹ lưng còng, mẹ ơi!

 

Vị khói thơm chè đồi

Mãi đến giờ vẫn chát.

 

Từng có mùa đông rét

Đơn vị dời vào hang

Hơi đá lùa như cắt

Con dồn phân dơi đốt

Nồng cay mùi đạn khét

Khói lên không gặp trời.

 

Con cuộn tròn võng nhớ

Bếp trấu chiều mẹ ủ

Có còn thơm khói lên?

 

Qua rất nhiều đạn bom

Suốt dọc dài đất nước

Ở đâu con cũng gặp

Mẹ lặng nhìn đôi mắt

Ngời ngợi màu lửa quê.

 

Bền bỉ màu lửa quê

Thức bao đời giữ đất

Chiều nay làu bóng giặc

Như mọi chiều lửa thắp

Khói lên xanh chân đồi.

 

Khói lên, kìa mẹ tôi !...

 

                             10-1975

 

 

 

                        Trước cửa rừng

 

Trước cửa rừng anh bối rối nghĩ về em

Nơi sâu thẳm của muôn ngàn vang động

Nơi cửa mở màu xanh ra vô tận

Là thơ rừng anh viết cho em.

 

Rừng trong ngần tiếng suối, tiếng chim

Khi dìu dặt, khi uà ra bát ngát

Nghe rất trẻ như tiếng người gieo hạt

Cho sao lên xanh kín cả đêm rừng.

 

Anh như say tan lẫn giữa vô cùng

Giữa hương đất, hương cây từ độ ấy

Có bão giông tháng năm đọng lại

Hóa  hương rừng vấn vít hôm nay.

 

Sắc biếc thầm thì chót vót ngọn cây

Là màu thắm muôn đời của đất

Mặt trời thổi cháy lên bát ngát

Màu xanh khát vọng đến muôn sau.

 

Rừng của em như gương mặt thẳm sâu

Mỗi mặt lá đều in hình mưa nắng

Mỗi ngọn gió đều thổi từ yên lặng

Tới mênh mông hóa những cánh buồm.

 

Đến với rừng, anh hiểu anh hơn

Bởi yêu em, rừng thành nỗi nhớ

Thành con dốc khi mồ hôi đổ

Thành cây dăng trước mọi bão bùng

Thành chân trời chim hót phía hừng đông.

                           

                   Rừng Thanh Sơn - BV Việt Đức, 1970

 

 

Tiếng gà của mẹ

 

            Làng tranh Đông Hồ ven sông Đuống (Bắc Ninh). Tranh gà Đại Cát là một trong những tranh tết thuộc dòng tranh dân gian ấy. Tranh vẽ và in trên giấy dó với màu thuốc cái được chế từ thiên nhiên: tán vỏ trai làm điệp trắng; than lá tre: màu đen; hoa dành dành: màu vàng; son đồi: màu đỏ... đã tạo nên được hòa sắc nhuần nhị và tươi sáng.

 

 

Việc bề bộn không về

Mẹ gửi cho quà tết

Có chú gà “Đại Cát”

Gáy trên nền điệp son.

 

Vẫn sắc mầu vẹn nguyên

Gợi một thời thơ bé

Sông Đuống trôi như thể

Điệp dăng dăng nét hồ.

 

Tre ngà chắc đang mùa

Mẹ góp gom từng lá

Than đen như mắt mẹ

Những ngày xưa hội làng

Lại nhuần từng nét vẽ

Lượn quanh màu son thơm.

 

Gió dằng dặc triền sông

Chiều chiều con ra bãi

Con thuyền chưa trở lại

Giấy dó làng Cao đợi

Điệp Đông Triều, mẹ ơi!

 

Sông Đuống vẫn đầy vơi

Nối hai mùa kháng chiến

Vườn dành dành con hẹn

Bao giờ cao ngang đầu

Mà chiều nay hoa nở

Trong mắt gà thẫm nâu.

 

Chẳng bao giờ quên đâu

Những miền quê dân dã

Khăn ai xanh hoa lý

Tóc ai vấn đuôi gà

Pháo ran bên Đồng Kỵ

Rượu nồng tăm làng Vân

Hội Lim còn để nhớ

Bút Tháp ngời hoa văn

Đã nhập hồn nghệ sĩ

Ánh ngời trên mặt tranh.

 

Đi suốt cuộc đời mình

Lòng mẹ thành câu hát

Bây giờ về bên con

Như tiếng gà Đại Cát

Sáng bừng chiều cuối năm.

 

Sắc màu từ tay mẹ

Lũ lượt vào hội xuân.

 

                                    12-1976

 

Từ khóa
Chia sẻ

Tin khác

0 bình luận

Bình luận

Email sẽ không được công khai trên trang.
Điền đầy đủ các thông tin có *