Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Nguyễn Kiên – Truyện ngắn và tản văn

21-07-2011 11:29:44 AM

VanVN.Net - Nguyễn Kiên vào làng văn với truyện thiếu nhi “Chú đất nung” (kiểu “Chú lính chì”của Andersen) cách nay gần 60 năm, có viết và có thành tựu về tiểu thuyết: “Vùng quê yên tĩnh” và “Nhìn dưới mặt trời” là sách hay trong thời của nó, nhưng bạn đọc vẫn nhớ Nguyễn Kiên như một bậc thầy truyện ngắn. Nhiều truyện ngắn của ông đạt đến kinh điển do bố cục vững chãi, miêu tả tâm lý tự nhiên và tinh tế. Đáng kể nhất trong văn Nguyễn Kiên là, do giữ các trọng trách trên văn đàn, ông không thể không viết về chiến tranh, về hiện thực đời sống (công trường, hợp tác xã…) nhưng ông biết nhanh chóng lách qua cái nền thoáng và trong, đưa ngòi bút lách sâu vào số phận éo le của các nhân vật khiến bây giờ đọc lại, những con người ấy vẫn đọng lại còn thời thế thì đã nhiều chồng lấn nhạt nhòa. Xin bạn đọc thử xem…

Nhà văn Nguyễn Kiên

 

Truyện ngắn

 

ANH KENG

Năm Keng mười tám tuổi, ông Keng bắt đầu tính chuyện hỏi vợ cho anh. Liền trong hai năm, đánh tiếng ba đám, đều không được. Các cô gái không thích Keng, còn đối với ông Keng thì các cô sợ.

Quả thực ông Keng cũng có chỗ khác người. Ðầu tóc ông bao giờ cũng để dài, tóc chờm xuống gần kín cổ áo. Còn đầu tóc anh em Keng thì trọc, cắt bằng kéo, nham nhở như lông sâu róm. Thời kháng chiến, lính Tây hay về làng sục sạo, ông bảo: làm thế để đánh lừa thằng Tây. Nhưng bây giờ thằng Tây đã cuốn xéo rồi, việc gì còn phải đánh lừa ai? Chính là vì ông kiệt. Mái gà nhà ông đẻ, ông không bán trứng ở làng, sợ chỗ thân tình phải để rẻ. Bà Keng mang lên tận chợ huyện bán. Mười chín quả trứng, mỗi quả tám xu, vị chi một đồng năm hào hai xu, người mua bớt hai xu, còn một đồng rưỡi.

- Ðồ khôn nhà dại chợ, đã lên đến trên ấy, không bán được chín xu thì thôi chứ, của thêm vào chẳng có lại có của bào ra!

Bà vợ cãi:

- Dào, hai đồng xu thì làm gì, cũng coi như là tôi uống bát nước chè tươi...

Ông Keng quắc ngay mắt lên:

- Lại còn quạc cái mồm ra nữa à? Uống bát nước nó khác, nó bổ béo vào thân mình. Ðằng này đi ném ra chỗ giời ơi đất hỡi, dễ rồi người ta ơn đời mình đấy. Nay hai xu, mai hai xu...

Bà vợ im bặt. Trong nhà này người ta đã sống quen như thế, vợ con chỉ được quyền nghe, còn ông có quyền nói. Và người ta tin như thế là phải. Thì cứ xem, nó rành rành ra đấy: không nhờ ông mưu tính, xếp đặt, thu ha hà vén thử hỏi lấy đâu ra nhà gỗ, sân gạch, bể nước như thế này?

Ðối với các con, ông Keng lại càng khắc nghiệt. Ðấy là cách biểu lộ lòng thương yêu con cái của ông: ông muốn anh em Keng sau này phải kế tục được ông, vun đắp cho cao to thêm mãi phần gia tài do ông để lại chứ không thể ăn tàn phá hại đi. Keng còn phải vác ngược bừa, sợ răng bừa chạm đất, đã suốt ngày chài chãi ngoài đồng. Hết việc đồng đến việc nhà, bố Keng ốp Keng làm đến xâm tối mắt. Lâu dần thành quen, hễ không cất nhắc chân tay là không chịu được. Ngoài cái hứng thú trong công việc làm ăn ra, anh chẳng còn hứng thú nào khác. Anh cũng chẳng cần phải lo lắng gì: ngay cả tương lai của anh, bố anh cũng đã xếp đặt sẵn cho cả rồi... Anh sống, vừa cằn cỗi như một cụ già, vừa ngây thơ như một trẻ nhỏ.

Vào hợp tác xã, Keng đứng đầu bảng lao động hạng A. Việc gì khó khăn, nặng nhọc hợp tác cũng gọi đến anh. Rồi phong trào chung lôi anh vào cuộc họp hành, học tập, tranh cãi...

- Nay họp. Mai họp. Ðể rồi xem có được thêm công điểm họp nào không? - Bố Keng cằn nhằn.

- Người ta họp kiểm điểm ông đội trưởng xui vợ tưới nước vào phân mà lại không đi à! - Keng trả lời bố, cộc lốc.

- Dào, dễ không có mày, người ta không kiểm điểm được! - Ông Keng không ưa cái thói cãi lại, nghiến răng chì chiết. - Tao còn lạ gì chúng mày, chỉ giỏi đàn đúm, đàn đúm... Liệu mà giữ lấy thân đấy, con ạ, không ai nắm tay được đến tối, gối đầu tay được đến sáng đâu!

Càng ngày Keng càng hay cưỡng lại bố. Anh không bằng lòng cái việc bố anh cứ đi hỏi hết đám này đến đám khác cho anh. Ðúng là anh phải lấy vợ rồi, nhưng vợ anh là "đứa nào" ở làng này nhỉ? Chính điều bí ẩn đó hấp dẫn anh, đem lại cho anh nỗi lo lắng và niềm say mê riêng, bố anh không thể nào hiểu thấu được.

Ở đầu xóm nhà Keng có cô Ngọ, đang tuổi dậy thì. Ngọ béo khỏe, lại khéo giữ nước da cứ hồng ửng lên và gặp ai cũng mủm mỉm cười, chẳng hiểu có ý gì. Ngọ hay diện quần lanh đen, áo sơ mi cổ cánh nhạn màu lòng tôm chật căng, trông phây phây. Keng biết bố anh không ưa gì cái vẻ màu mè của Ngọ nhưng chính vẻ màu mè ấy lại làm anh choáng ngợp. Anh vốn là người ít giao thiệp, thiếu từng trải, tình cảm bị đè nén, lòng dù khát khao nhưng chưa hề dám say mê một cái gì theo ý thích riêng, nay tình yêu bỗng cháy bùng lên... Một đêm, đi họp đội sản xuất về, Keng gặp Ngọ ở đầu xóm. May quá, chỉ có hai người. Keng bước vội lên, vấp một cái đau điếng, nhưng cũng chẳng hề gì. Anh liều hắng giọng, rồi khẽ gọi, giọng như người ngạt mũi:

- Ngọ ơi!

 Ngọ dừng lại, ngơ ngác...

 - Ðằng ấy... đi chơi với tớ cái đi!

- Bây giờ í?

- Khô... ông - Keng cuống lên, vì thực bụng Keng chưa dám nghĩ đến việc rủ Ngọ đi chơi ngay bây giờ.

- Mai nhá?

- Ừ, mai... - Keng lắp bắp nhắc lại, như cái máy.

Ngày hôm sau, trời chưa kịp tối câu chuyện đã vỡ bung. Mấy cô gái trong xóm cứ trông thấy Keng là nhấm nháy nhau rồi vờ nói tướng lên:

- Này, đằng ấy đi chơi... ơi với tớ cái đi!

Keng nói chuyện thực, Ngọ lại đùa. Vì sao thế nhỉ? Keng ngẫm nghĩ mãi, cuối cùng anh thấy có nhẽ Ngọ đỏm dáng, còn anh cục mịch nên cô nàng không thích đi chơi với anh.

Vậy Keng phải may một bộ cánh. Việc này không thể cho bố biết được. Anh năn nỉ với mẹ, bà mẹ xiêu lòng, dúi cho anh mười lăm đồng, anh may một cái quần ka-ki và một chiếc áo sơ mi vải phin xanh Nam Ðịnh. Ðã may rồi thì phải mặc. Và bố anh làm ầm ĩ ngay lên:

- À, thằng này giỏi. Tao nuôi mày của chất cao hơn người, thử hỏi mày đã làm được cái gì báo đáp tao chưa mà tấp tểnh học đòi rồi phá của đấy hử?

Ông Keng nói ra nói vào suốt buổi chiều. Ðến tối, ông vẫn còn nói. Keng không cãi, chỉ lùi lũi trốn sang nhà bạn ngủ nhờ. Ông Keng lại càng điên máu. Bộ quần áo, dù sao Keng cũng đã may rồi, của vẫn còn đấy, thôi cũng cho là được đi. Nhưng con mà dám vượt quyền bố là không thể được. Vợ nuông con, vượt quyền chồng cũng không thể được. Bao nhiêu lời chì chiết, ông đổ cả lên đầu vợ.

Ông Keng nằm phản nhà ngoài. Bà vợ nằm trong buồng với thằng Chỉnh, cái Trình. Bà vợ nghe mệt quá đã ngủ từ lúc nào nhưng ông vẫn cứ dẫn dụ, quát nạt và lôi cả những chuyện từ hồi hai người mới lấy nhau ra mà kể lể. Hôm sau, bà cụ Tỵ bên hàng xóm gặp ai cũng líu lại, lắc đầu lè lưỡi kêu rằng đang đêm bà cụ choàng tỉnh dậy, thấy nhà ông Keng có tiếng người, đèn lại sáng, tưởng là trời sắp rạng, vội vàng quang gánh lên chợ huyện. Ðến nơi, chợ chẳng có ma nào, bà cụ ngồi gục dưới gốc đa, đánh một giấc dài...

Mỗi khi Keng diện bộ quần áo mới, Ngọ lại vờ đứng sững, nheo mắt nhìn anh và khen: "Bảnh quá nhỉ!". Keng để ý thấy cứ ngày chủ nhật lại có mấy thanh niên ở công trường về chơi nhà Ngọ. Họ diện quần tây, đi dép da, đeo đồng hồ. Keng cũng đã có một đôi dép lốp, mua từ lâu nhưng chẳng mấy khi đi nên còn mới nguyên. Anh chỉ kém cái đồng hồ đeo tay.

Vậy Keng lại phải mua một cái đồng hồ đeo tay. Lần này anh không xin mẹ nữa. Anh đi gánh gạch thuê, mặc bố mắng chửi, nhất định không đem tiền về nhà. Dành dụm ít lâu, rồi cũng mua được một cái đồng hồ cũ, mặt đã ố vàng, hai cái kim tróc cả mạ lân tinh. Có đồng hồ thì phải thạo xem giờ. Ðã có lần Ngọ hỏi giờ, anh trả lời nhầm, may mà cô ta không có đồng hồ nên không biết. Bấy giờ Keng mới thấy văn hóa mình kém quá. Bố anh có cho anh đi học mấy đâu: "Học lắm rồi nghiền chữ ra mà ăn à!" Ngọ đã học hết lớp bốn. Còn anh, trong chiến dịch bổ túc văn hóa năm ngoái mới chớm học lớp ba được dăm buổi. Phen này nhất định anh phải đi học...

Việc Keng đi học làm cho lớp bổ túc văn hóa vui vẻ hẳn lên. Số thanh niên tinh quái trong lớp từ lâu đã biết chuyện Keng và Ngọ liền xúm vào trêu anh. Keng không biết chối. Anh chỉ văng tục và đỏ mặt lên. Mọi người lại càng trêu anh tợn. Anh chạy chỗ mãi, nhưng chẳng chạy đâu cho thoát. Cuối cùng, chị cả Lạt nói:

- Anh Keng xuống ngồi đây với tôi nào!

- Keng ngồi chưa nóng chỗ, một thanh niên đã lại kêu lên.

Anh Keng ngồi với chị cả Lạt, trông đẹp đôi không kìa!

Chị cả Lạt chẳng phải tay vừa. Chị lấy chồng từ năm mười tám tuổi. Năm mười chín, chị đẻ đứa con giai, sau đó chồng mắc bệnh, ốm liền trong hai năm rồi chết. Chị làm quần quật, phụng dưỡng cha mẹ chồng, hầu hạ chồng, bú mớm cho con. Có những ngày ngắn ngủi, cơn bệnh lui đi, người khỏe khoắn ra, chồng chị yêu thương chị như người phát cuồng. Nhưng rồi chồng chị lại đổ ụp ngay xuống, rất nhanh chóng và ngày càng đuối dần đi. Còn chị thì cứ hơ hớ ra. Vô số trai làng, cả mấy ông trung niên đã có con gái lớn sắp đến tuổi gả chồng đua nhau quấy rầy chị: "Thấy cái hoa thơm, tội gì chẳng ghé mũi ngửi qua một tý!". Chồng chị nằm đó, bất lực, cứ ghen lồng lên. Thành thử, chị chịu khổ gấp đôi.

Sau khi con lớn, chị thường hay về nhà mẹ đẻ ở, cả làng đều đinh ninh chỉ ngày một ngày hai là chị đi lấy chồng khác. Nhưng đã ngót bốn năm qua, chị vẫn chẳng lấy ai, mặc dầu những chàng trai lượn quanh chị còn đông hơn trước gấp bội. ấy là vì chị sợ. Cái hạnh phúc của chị, nó ngắn ngủi quá và tàn nhẫn quá. Và do đó khát vọng về hạnh phúc của chị trở nên to lớn quá. Chị muốn người chồng sau của chị phải là người có thể bù đắp lại cho chị tất cả những gì chị đã phải chịu thiệt thòi. Chị tiến đến gần người này, rồi người khác, ngẫm nghĩ về họ và lại lùi ra xa... Người ta bắt đầu bàn tán. Có người vì không được yêu xoay ra hằn học, có người vì ghét, cũng có người chỉ là rỗi mồm nói cho vui chuyện. Ðại để, toàn những điều ong tiếng ve, chẳng hay ho gì. Ban đầu, chị hết sức buồn bực, đau khổ, nhìn ai cũng như thù địch. Sau rồi cũng quen đi, gác ngoài lỗ tai tất, có đôi lúc còn lấy thế làm vui vẻ và để đối lại những lời trêu chọc chị chỉ cười tràn.

Khi mấy anh chàng tinh quái trong lớp học gán ghép chị với anh Keng, chị cho là chuyện hết sức nhảm. Chị quay phắt về phía bọn họ, lớn tiếng nói, nửa đùa nửa tức giận:

- Bận gì đến các chú đấy? Các chú không được như người ta, các chú ghen à?

Bọn thanh niên cười ầm lên, lại càng buộc chặt hai người vào. Keng không thể chịu đựng được, phát khùng với mọi người và bảo chị cả Lạt:

- Còn  nhà chị ấy, vừa vừa cái mồm chứ. Nhà chị là người đứng đắn...

Chị cả Lạt tái mặt đi vì bất ngờ. Nào đã mấy ai, trong những lúc đùa cợt lại bảo chị là người đứng đắn. Nhưng Keng nói thật hay nói mỉa mai? Chẳng lẽ Keng cũng biết mỉa mai?

Từ đấy, cứ ngấm ngầm một mình, càng ngày chị càng chú ý đến Keng.

Một hôm, hợp tác xã họp, cử Keng đánh một chiếc xe bò lên huyện chở phốt phát, cùng với hai người nữa. Chị cả Lạt nghĩ: "Hay mình thử đi một chuyến xem anh ta cầm càng như thế nào!" Liền rủ bà Thủy ngồi cạnh giơ tay xin đi.

Từ làng lên huyện xa tám cây số. Ði đã được quá nửa đường. Keng vẫn không chịu nghỉ, cứ lùi lũi, chẳng hề mở miệng. Bà Thủy đẩy xe phía sau, cùng với Lạt, cũng chẳng nói năng gì, chỉ ra công nhai trầu và nhổ toèn toẹt. Vừa nắng vừa mệt, Lạt đâm ra buồn. Tự nhiên chị lại nhớ không khí lớp bổ túc văn hóa, với những lời đùa cợt, gán ghép vô tư, đôi khi hơi sỗ sàng của bọn thanh niên. Nghĩ cho cùng, thế mà hóa ra vui. Lạt thèm có một cái gì cũng vui vui, tương tự như thế...

- Bác Thủy ơi, bác có chuyện gì vui vui kể đi nào!

- Tôi thì làm gì có chuyện vui - Bà Thủy đáp bằng một giọng uể oải - Già rồi! Bảo anh Keng ấy, anh ấy đang trai...

- Khỉ cái bà này. Cứ phải đang trai mới vui!

Lạt phát mạnh vào lưng bà Thủy, tiện đà đẩy cái xe bò lên một cái mạnh. Chiếc xe chồm tới, ván xe rung bần bật, dúi Keng về phía trước làm anh nhỡ bước, suýt ngã chúi. Keng chỉ khẽ gắt: "Dửng mỡ vừa vừa chứ!". Anh không bắt chuyện. Cũng không dám quay lại, sợ hai người đàn bà trông thấy mặt mình đang đỏ bừng lên.

- Thôi, không ai nói chuyện gì thì tôi ngủ vậy đây!

Lạt ghìm xe, nhảy lên, nằm nép vào một phía để tránh ánh nắng, chân co lại, chiếc nón lá che kín mặt và ngực. Hai càng xe trong tay Keng trĩu ngay xuống. Anh nghĩ bụng: "Cái nhà chị này thế mà nặng". Nhưng chính lúc đó, không hiểu sao anh lại thấy cái xe nhẹ tênh, kéo  cứ đi băng băng.

Lạt không ngủ. Ngủ làm sao được. Chị nhỏm dậy, nhảy xuống đất:

- Bác Thủy ơi, hay là bác kể chuyện buồn cũng được. Chuyện nào buồn nhất ấy!

- Chuyện buồn thì có đấy. Dưng mà cả xóm biết cả rồi, việc gì phải kể!

- Chuyện gì thế bác? - Lạt chột dạ, vội hỏi lại.

- À, chuyện ông đội Lung!

- Thôi đi, đừng nói đến ông Lung nữa, ngứa cả ruột! - Ðột nhiên Keng quay lại, gạt đi bằng một giọng hằn học.

Lạt vui hẳn lên. Chị cười lạc cả giọng và buộc chặt ngay Keng vào câu chuyện:

- A, anh Keng giỏi, anh nói xấu sau lưng người ta nhá!

- Thì nó sờ sờ ra đấy, bánh đúc bày sàng việc gì còn phải nói xấu!

Lạt làm ra bộ ngớ ngẩn, cứ gặng dần, buộc Keng phải nói ra những nhận xét của anh về ông đội trưởng đội sản xuất Lung. Rồi đột nhiên Lạt trở nên tinh quái, bắt bẻ những nhận xét của Keng. Keng nổi nóng cãi lại Lạt, mỗi lúc một hăng, tưởng chừng như chính Lạt là người đứng ra bao che cho những chuyện tư túi của ông Lung. Giọng Keng dấm dẳn, thô bạo, nhưng anh không nói vu vơ. Chẳng hạn như chuyện ông Lung dành ruộng mượt bùn cho vợ cấy, ruộng ít cỏ cho vợ đi vơ lá dành thửa nào, ở đồng nào; chuyện ông Lung bày cho vợ gánh phốt phát bằng thúng ướt rồi đem thúng về giặt, lấy nước tưới rau là vào hôm nào, đang kỳ chăm bón cánh nào... Lạt kêu lên:

- Giời đất ơi, cái nhà anh này y như thổ công! Nói đến con kiến trong lỗ cũng phải bò ra. Sao ở hội nghị anh cứ ngồi im như thóc, hứ?

- Tôi chẳng nói là gì! - Keng cãi lại một cách yếu ớt.

- Anh á? Có nói, toàn nhìn trộm bố, rồi nói vuốt đuôi người ta! Phen này, bác Thủy ạ, bà con ta phải bầu anh Keng lên làm đội trưởng mới được, để cho anh ấy...

Thấy Lạt vui, bà Thủy cũng hùa theo. Và Keng lại rơi ngay vào tình trạng lúng túng như sa lưới: anh không quen đùa. Nhưng dù sao cái ý kiến đột ngột của Lạt vừa rồi cũng làm Keng nghĩ ngợi. Quả là anh biết cặn kẽ mọi chuyện làm ăn trong hợp tác xã hơn Lạt nhưng anh không chăm họp hành, không hăng hái nói năng, không chú trọng đến công việc chung được như Lạt. Anh luôn luôn bị giằng co và một nỗi sợ hãi ngấm ngầm cứ bám riết lấy anh. Anh sợ bố. Vì sao sợ, anh không rõ, nhưng đúng là anh sợ. Cũng như mọi người trong gia đình anh, anh sợ...

Lượt về, còn cách làng khoảng ba cây số, trời bỗng đổ mưa rào. Nước sa trắng xóa cánh đồng. Nhìn về phía trước, chỉ một quãng ngắn, con đường đã mất hút sau những hàng mưa xiên chéo. Chiếc xe bò bị trượt một bánh xuống cái hố tát nước. Xe chở khá nặng vì ngoài số phốt phát còn mấy chục chiếc lưỡi cày cải tiến. Càng kéo, càng đẩy, xe càng lún và nghiêng đi, hai càng xe đòi bật lên làm cho hai bắp tay Keng bị giật mạnh, nhức suốt lên tận vai. Keng bám thật chắc mười ngón chân xuống bùn, lưng cong, gập hai vai nhô hẳn lên và anh nói, giọng rít qua kẽ răng:

- Bắt bánh lên!

Hai người đàn bà sợ cuống. Một ngọn gió lạnh xô tới, xé rách mảnh nilông phủ trên xe và giật cái nón Keng đội ném xuống ruộng, kéo thành một đường vòng cung dài. Lạt vội vàng đuổi theo, cướp lại cái nón, đội lên đầu cho Keng. Keng không chú ý đến cái nón. Anh ngẩng lên, môi mím chặt, đôi mắt mở trừng trừng, giận dữ, quả quyết, sáng rực trên khuôn mặt chan hòa nước mưa lạnh giá. Anh nói như quát:

- Bắt bánh nhanh lên! Ðổ mẹ nó xe bây giờ!

 "Anh ấy không bằng lòng, anh ấy gắt..." Lạt nghĩ vậy với một nỗi lo âu vừa mơ hồ vừa rõ rệt. Chị vội nhảy xuống chỗ đầy bùn lỏng, cùng với bà Thủy cúi gập người xuống, chúi đầu vào cái bánh xe trơn nhầy nhụa. Nhưng chị vẫn để mắt nhìn Keng. Chị thấy anh vươn dài cổ ra, người nhoai về phía trước, chân đạp mạnh, ngón chân miết xuống bùn thành những rãnh sâu đầy nước, toàn thân căng thẳng như một cánh cung sắp bật. Và chiếc xe bắn vọt lên, nhảy chồm về phía trước.

Sau chuyến đi xe phốt phát, chị cả Lạt luôn luôn bị đôi mắt của Keng - đôi mắt giận dữ của anh lúc anh mắng chị, giữa cơn mưa - ám ảnh. Chị bàng hoàng nhận ra rằng đôi mắt đó chứa đựng một sức mạnh gì hết sức bí ẩn, chưa ai biết và chính chị cũng chưa biết rõ, chị chỉ mới cảm thấy nó thôi. Chị bắt đầu tin rằng, cái nhà anh Keng lầm lì, vụng dại thực ra không phải như mọi người vẫn tưởng... Chị đâm ra ngơ ngẩn, cứ nhớ mãi trận mưa, chỉ mong sao có dịp lại được đi như thế, anh Keng lại giận dữ với chị như thế và buổi học nào chị cũng chăm chú nhìn khuôn mặt vuông vức, gồ ghề, nhìn cái áo bạc phếch, cái lưng to rộng hơi gù xuống của Keng.

- Keng, có ai đang nhìn cậu kìa! - Một thanh niên láu lỉnh bỗng kêu lên.

- Này, tôi bảo cho nhà chú biết, nhà chú chỉ đáng tuổi em tôi thôi - Chị cả Lạt công khai thú nhận và lớn tiếng át đi - Chú đừng có lỡm!

Lạt vẫn nhìn Keng, nhưng Keng không nhìn lại. Lạt biết Keng đã bị cô Ngọ hơ hớ thu mất hồn anh rồi. Nỗi ghen tức ngấm ngầm nhói lên trong lòng chị. Chị cựa quậy người trên ghế, chấm mực một cách giận dữ rồi lại vô cớ vẩy hết mực ở ngòi bút đi.

Keng học các môn bình thường, riêng môn tính rất giỏi. Anh toàn tính nhẩm. Tính đố anh cũng nhẩm.

- Anh Keng này, anh làm tính giỏi thế, anh giúp tôi một tý với - Một đêm, sau khi tan học, chị cả Lạt trùng trình đợi Keng ở chỗ vắng, giữ anh lại và nói.

- Ngữ tôi thì giúp thế nào được chị!

- Anh sợ à? - Ðột nhiên Lạt ngẩng lên hỏi Keng.

- Không! Không đời nào! - Keng vội vàng chối.

- Thế thì anh đến đi. Anh bảo tôi cách nhẩm, còn tôi sẽ bảo lại anh cách làm nhời giải. Như thế là tương trợ... Tối mai anh đến nhà tôi nhá. Không phải nhà tôi đâu, nhà mẹ đẻ tôi ấy!

Anh ruột Lạt đi làm xa, ở nhà chỉ có bà mẹ Lạt, người chị dâu và ba đứa cháu nhỏ, thực thuận tiện cho Keng đi lại.

Nếu Keng không đến thì đúng là anh sợ bố anh rồi. Anh đã nói rằng anh không sợ. Anh là con giai. Anh đã lớn. Và công việc làm ăn chung hàng ngày đã kéo anh vượt ra ngoài bốn bức tường gia đình... Ban đầu, cứ đến lúc người nhà đi ngủ là Keng về. Càng về sau Lạt càng giữ anh ở lại khuya hơn. Trong không khí vắng lặng và thân thuộc của nhà mình, đúng là nhà mình chứ không phải ở nơi nào khác, chị cảm thấy có cái gì đó rất cũ kỹ và cũng rất mới mẻ tiến đến gần chị, nhập vào chị, lôi cuốn chị đi, chị muốn kìm mình lại nhưng vẫn cứ bị nó lôi cuốn và không biết nó sẽ lôi cuốn chị đi tới đâu. Ðầu óc chị dần dần trở nên mờ mịt. Chị làm tính sai tuốt ráo cả.

- Ơ cái nhà chị này, tơ tưởng chuyện gì mà ngồi đờ ra thế?

- Không! - Chị cả Lạt giật mình, mặt đỏ lên. Nhưng đột nhiên chị trấn tĩnh lại và chị nói không che giấu - Tôi chẳng tơ tưởng chuyện gì. Tôi đang nghĩ đến anh đấy!

- Nghĩ đến tôi làm sao?

- Nghĩ đến anh với cô Ngọ. Anh đừng có hoài công đeo đuổi. Cô ta... không... hợp... với anh đâu!

Giọng Lạt run run và yếu ớt dần. Chị không dám tin vào điều chị vừa nói. Biết đâu, bỗng một lúc nào đó Ngọ chẳng bừng tỉnh và nhận ra Keng như chị từng nhận ra. Chị không thể cứ để mặc cho sự đời trôi chảy... Nhưng Keng đã đứng dậy, cuộn vở lại.

- Không. Anh đừng về. Anh... - Chị cả Lạt vội vàng nói, người chị lạnh đi vì hoảng sợ và chị nhìn thẳng vào Keng bằng đôi mắt dữ tợn như mắt thú rừng.

Keng choáng váng như bị xô vào cơn lốc mãnh liệt, bốn phía đều mù mịt và cứ xoay tít đi. Chính trong lúc đó, một ý nghĩ loé lên trong đầu anh: "Sao Ngọ nó không nắm cánh tay mình, nó không nhìn mình như thế nhỉ?" và lập tức cơn lốc chấm dứt, để lại một mình anh đứng sững trên mặt đất trống trơn, lòng nguội ngắt... Keng khẽ nhắc lại, giọng dứt khoát:

- Thôi, khuya rồi, tôi về đây!

Chị cả Lạt lật đật chạy theo Keng ra tận cổng mới dừng lại. Người chị như lên cơn sốt, phải vịn vào cái cọc rào, chỉ muốn gục xuống. Nhưng đầu óc chị rất tỉnh táo và một ý nghĩ hết sức khủng khiếp cứ bám chặt lấy chị: "Giời ơi, mình yêu anh ấy rồi ư? Trong làng biết bao nhiêu người, sao mình lại chẳng yêu ai, mình lại đi yêu anh ấy?".

Ðại hội hợp tác xã xong, các đội sản xuất lần lượt họp bầu lại đội trưởng. Kỳ này, ông Lung nhất định đổ rồi. Nhưng bà con còn phân vân không biết nên bầu ai, vì những người được tín nhiệm đều đã có chân trong quản trị hoặc trong ủy ban cả. Một hôm, nhân gặp ông chủ nhiệm, chị cả Lạt nói:

- Ông ạ, cháu đề nghị các ông cứ dự kiến anh Keng ấy.

- Ai?

Ông chủ nhiệm còn đang rối bù lên vì công việc, ngơ ngác hỏi lại. Chị cả Lạt tưởng ông không bằng lòng, sợ quá, lúng túng mãi mới nói tiếp được:

- Anh Keng ý, ông ạ. Anh ý... còn hơn là những người như ông Lung.

- Thì đã hẳn rồi! - Ông chủ nhiệm giờ mới vỡ nhẽ, cười vui vẻ - Nhưng mà cũng gay đấy, làm đội trưởng còn cần phải...

- Còn cần phải ... đủ các tiêu chuẩn, có phải không ạ? - Chị cả Lạt đã bình tĩnh lại, liền dấn lên - Thì các ông giúp đỡ anh ý. Về phần xã viên, một khi chúng cháu đã bầu, chúng cháu cũng sẽ giúp đỡ. Kỳ vừa qua, nhà ông Lung làm chúng cháu thiệt hại biết bao công của rồi...

Một số cán bộ và xã viên cũng có ý kiến như chị cả Lạt. Ông chủ nhiệm liền đề nghị đưa ra thảo luận ở đội. Bà con tuy chưa tin Keng hẳn nhưng lại nghĩ, thà chậm việc còn hơn nát chuyện nên cuối cùng đều giơ tay bầu anh. Ông Keng cũng đành phải giơ tay theo mọi người.

- Thế nào, được giữ chân đội trưởng có sướng không? - vừa về đến nhà, ông Keng đốp luôn:

- Người ta bầu tôi thì tôi phải đứng ra. Bố đay gì tôi?

- À, "Phải  đứng ra" à? Mày nhất định không chịu đứng ra thì ai bắt bò được mày! Tao truyền đời cho mày biết, đến như tao, cai quản độc một cái nhà này, bạc cả đầu mà vẫn chưa đâu vào đâu nữa là cái ngữ mày... Ăn cơm nhà vác ngà voi... lắm người nhiều điều... nước đời khó lắm đấy, con ơi!

- Thôi, bố đừng nói nữa!

Thấy bố cứ dài dòng mãi, Keng sốt ruột, gạt phắt. Ông Keng tắc cuống họng: Ông trợn mắt, khạc ra một tiếng "hứ" nặng như chì và bĩu môi dài ra, như có ý đe ngầm: "Mày không nghe tao, để rồi tao xem mày làm nên được cái thá gì?".

Thực ra ở hội nghị, Keng cũng đã chối giẫy lên.

Nhưng mỗi người một câu cứ buộc anh vào. Rồi Ngọ đứng phắt dậy, cười toe toét và réo ầm lên:

- Hoan hô anh Keng! Tôi cũng xin bầu anh Keng đấy ạ!

Keng ngồi nín thít, không dám ló mặt ra trước ánh đèn. Anh vừa ngượng vừa uất... Cô ta giễu anh. Cô ta coi thường anh. Thì anh đứng ra làm, làm thật tốt cho cô ta trắng mắt ra! Trước đây, chẳng bao giờ anh dám tin mình có khả năng làm được đội trưởng. Bây giờ, chính bà con nói anh có khả năng làm được đội trưởng kia mà! Biết đâu, sau này Ngọ lại chẳng chết mệt vì cái chuyện đội trưởng của anh.

Năm ấy đang có phong trào tăng vụ, hợp tác xã quyết định mở chiến dịch cấy thêm mấy chục mẫu Nam Ninh xuân. Keng triệu tập họp đội sản xuất, phổ biến kế hoạch mới và lập tức xã viên làm ồn lên như chợ vỡ:

- Xem ở bên Võ Lăng kia kìa, năm ngoái cấy Nam Ninh, sâu ăn sạch, mất cả chì lẫn chài!

- Yêu cầu không cấy Nam Ninh. Cấy Nam Ninh bạc đất, đến vụ mùa rồi ăn bùn!

- Tôi có ý kiến...

- Tôi đã. Tôi xin hỏi ông đội trưởng, chửa xong chiêm đã bắt cấy Nam Ninh, mà giời đất như thế này, chết trâu, Chính phủ có bồi thường không ạ?

- Lại còn khoản phân..

- Khoản thóc giống...

Chung quy lại mọi người đều ngại vất vả, sợ hỏng ăn, cứ hai bát úp một hơn là bày vẽ ra như thế. Keng không biết giải thích. Vả lại anh cán bộ huyện về chỉ đạo cũng giải thích chán ra rồi. Anh cứ để mặc mọi người nói ra nói vào. Nói cho kỳ hết.

- Bà con trật tự! - Cuối cùng, Keng giơ đèn lên, huơ một vòng và nói như quát - Tôi có ý kiến thế này: Ta đã làm là phải có ăn, không ăn nhiều thì ăn ít, ăn ít còn hơn không. Trên đã nghiên cứu kỹ, thấy vùng ta cấy chiêm ít quá nên mới bổ sung cấy Nam Ninh, mà Nam Ninh cũng có thí điểm rồi. Bà con nào còn thắc mắc thì lên trên mà hỏi chứ cứ "tranh đấu" với nhau ở đây mãi thì khuya mất, mai lấy sức đâu mà đi làm. Bây giờ tôi đọc bảng phân công, nếu không ai bổ sung gì thì giải tán.

Keng rút trong túi ra một mảnh giấy nhàu nát, vuốt thẳng, ghé vào gần đèn, đọc rành rọt tên từng người và công việc người đó phụ trách. Thế là cả cái chiến dịch làm Nam Ninh với muôn vàn khó khăn rút lại chỉ còn toàn là những công việc đồng áng quen thuộc... Thắc mắc vẫn còn đó, nhưng chẳng lẽ lại giãy ra không chịu đi làm. Người ta tặc lưỡi đứng dậy, phủi quần, kéo nhau về.

Keng trực tiếp phụ trách nhóm thợ cày. Hôm nào anh cũng dậy từ tờ mờ đất, đi dẻo một lượt, khua các ông thợ cày dậy. Trở về, nuốt vội mấy lưng cơm, anh lại đi dẻo lần nữa, kỳ khi nào các ông ấy đã đi hết, anh mới đánh trâu theo.

Tuy vậy công việc cũng chỉ chạy được vài ba ngày đầu. Bị ốp, các ông thợ cày phát khùng.

- Ông Tuy ơi, ông có đi làm không thì bảo, để còn điều trâu cho người khác?

- Có đấy ạ. Tôi đi ngay đây ạ.

Nhưng ông Tuy vẫn nằm lì ở nhà. Keng lại đến gọi. Ông lại trả lời y như thế. Và ông vẫn không nhúc nhích...

Keng đứng như bị trời trồng ở ngõ nhà ông Tuy, mồ hôi vã ra đẫm trán.

- Ẳng...! - Một con chó đi qua bị Keng đá cho một cái mạnh. Con chó cắm đầu chạy, đâm sầm vào Ngọ vừa ở ngõ ngang bước ra.

- Con khỉ cái nhà anh Keng nhá! Người đâu có người... - Ngọ lườm Keng, trách móc bằng một giọng õng ẹo.

- Người làm sao? - Keng trợn mắt lên quát.

Ngọ sợ quá, vội vàng lủi mất.

Lúc ấy, chị cả Lạt vừa gánh phân đi tới. Chị đỗ gánh xuống, nói nhỏ nhẹ:

- Làm sao mặt lại nặng như đeo đá thế kia?

- Làm sao à? Không đi cày thì tôi điều trâu cho người khác!

Chị cả Lạt hiểu ngay:

- Không được, anh Keng ơi! Người ta nuôi trâu, phải ưu tiên cho người ta đi cày. Anh làm thế rồi rối như canh hẹ.

- Rối tôi cũng làm. Dứt khoát... - Keng đáp liều.

- Anh có biết vì sao ông ấy không đi cày không? Ði cày thì phải cắt thêm cỏ trâu, ông ấy sợ thiệt...

Keng đứng ngớ ra nhìn chị cả Lạt: chị ta nói khéo chừng thực.

- Bây giờ phải đề nghị ban quản trị cho thêm điểm cỏ trâu. Tôi sẽ xung phong lập nhóm đi cắt cỏ, đồng gần hết cỏ thì đi đồng xa - Lạt dừng lại, nhìn thẳng vào mắt Keng, không chớp và chị hạ giọng xuống - Anh cứ làm thế đi, Anh cứ tin tưởng ở tôi, cứ làm thế đi.

Ðủ cỏ trâu, ông Tuy đã chịu đi làm. Nhưng ông làm câu dầm, nửa ngày mới đánh trâu đi, nhoáng một cái đã thấy về. "Cơ đồ này rồi hỏng!" Chị cả Lạt nghĩ vậy và chị đi tìm Keng, thì thầm với anh:

- Anh phải điều người đi bừa ngả mạ ngay đi. Có mạ, nhất thiết phải cấy. Họ trùng trình thế, lỡ vụ là họ để ruộng làm mùa đấy. Tôi thì đi guốc vào bụng...

Chị cả Lạt cứ cặp kè bên Keng như thế, Keng không thể nào không nghĩ đến chị.

Một buổi sáng, chị cả Lạt vừa trở dậy, tay còn cầm cái gáo dừa, đang đứng súc miệng bên chum nước dưới gốc cau, chợt thấy buồn buồn ở sau gáy. Chị quay lại, bắt gặp Keng đứng bên kia hàng rào đang đăm đăm nhìn chị. Lạt hết cả ngái ngủ, vội vàng chạy lại.

- Gì thế? - Lạt hỏi khẽ, phấp phỏng mong chờ Keng sẽ nói với chị ngay lúc này đây, một điều gì chị vẫn chập chờn trong lúc mê ngủ. Nhưng không...

- Chị ngâm mạ nhá.

- Ngâm mạ?

- Ừ, ngâm mạ. Ruộng mạ bừa mượt rồi.

- À, ngâm mạ Nam Ninh - Bây giờ chị cả Lạt mới sực tỉnh - Ðược rồi, tôi đi lấy thóc giống nhá, tôi ngâm ngay hôm nay nhá!

Lạt theo chân Keng đi luôn. Ðến đầu xóm thì gặp Ngọ. Hôm nay chủ nhật. Ngọ diện quần lanh đen, áo sơ mi màu hoa cà, tóc buộc một cái khăn tay in bông hoa đỏ loè. Cô lên phố huyện chơi với bạn làm công trường trên đó.

- Anh Lạt ơi! - Keng giật mình quay lại. Ngọ phá lên cười và cô lại càng réo to hơn - Không, tôi gọi chị Keng cơ. Chị Keng ơi!

- Con bà cô, làm chẳng làm, chỉ đi nhởn - Keng đỏ mặt lên, nhổ toẹt một bãi nước bọt, rủa theo Ngọ và trong lúc đó anh bỗng cảm thấy một điều hết sức lạ lùng ngấm ngầm khích động anh: anh muốn thách thức Ngọ, chỉ riêng Ngọ thôi, hãy cứ trêu anh đi!

Cuối chiến dịch cấy Nam Ninh, đội sản xuất quyết định ngả một con lợn, cho bõ cái công phơi nắng suốt từ đầu vụ. Mờ sáng, lợn đã bắt ra chuồng, nằm thở hồng hộc trên tấm cánh cửa đặt ở đầu hiên. Các ông thợ cày cũng đã tề tựu đông đủ.

- Phải hãm một tí tiết, anh đội trưởng ạ!

- Dào, hãm làm gì, một đống người.

- Ðống thì mặc đống chứ. Chỉ kể riêng cánh ta thôi. Theo trâu vắt diệt, mồ hôi không kịp vuốt chẳng nhẽ lại không ưu tiên được bát tiết canh. - Cánh ta cũng phải có tiêu chuẩn: ai không biết uống rượu thì miễn. Như là anh Keng...

Keng cười cái cười thật dễ thương:

- Vâng, ông nào tiện tay bốc cho cháu xin dúm muối. Phần cháu, thế nào cũng được, chỉ xin nhớ cho phần bố cháu. Ông cụ thế nào cũng phải có tý cay.

- Còn phần thợ cấy thì sao đây? - Vừa lúc ấy chị cả Lạt te tái chạy tới và la lên - Cả tháng bán mặt cho đất, bán lưng cho giời, dễ kém các ông thợ cày!

- Nhà chị đàn bà, vào bếp đun ù nồi nước lên đi!

- Ơ hay, nam nữ bình đẳng, sao các ông lại độc quyền...

- Thôi không có lý sự. Ông Tuy đâu, mượn được dao rồi đây này. Sắc ra sắc!

- Không... - Lạt vẫn không chịu lép, mặt đỏ lên, nói như thách thức.

- Không thì anh Keng nhường cho chị ý vậy - Ông Tuy tiếp luôn, chẳng hiểu đùa hay thật và ông thọc một nhát, con dao bầu sáng loáng ngập giữa ức con lợn đến tận chuôi. Ngày hôm ấy, bao nhiêu thắc mắc, đố kỵ, bao nhiêu chuyện phiền toái bực mình người ta đều quên sạch. Bếp nhà nào cũng thơm inh cả lên. Giữa lúc rượu đã ngà ngà say, ông Keng cười hể hả, bảo Keng:

- Dạo mới vào vụ, làng xóm người ta nói anh nhiều quá, tôi rát cả mặt. Bây giờ cày cấy đã xong xuôi, ăn nhiều ăn ít thế nào chưa biết nhưng tôi cũng lấy làm mừng cho anh. Nhân tiện lúc rỗi rãi, tôi hỏi anh, anh định cái chuyện vợ con như thế nào, anh có còn theo đuổi con Ngọ nữa hay không thì anh bảo để tôi còn liệu?

Keng ngồi ngẩn người ra. A, Ngọ... anh đã quên cô ta từ lâu rồi. Vả lại, cái chiến dịch Nam Ninh vừa qua nó quần anh một trận nhược người, lúc nào cũng tối mắt vì bận rộn, còn thì giờ đâu... Thấy Keng ngồi im, ông Keng bắt đầu ướm ý anh về các cô gái làng, giới thiệu ưu, khuyết điểm từng cô, khuyên bảo anh, dọa dẫm và thuyết phục anh. Ông không tự quyền như trước, vì ông nghĩ: "Chẳng gì nó cũng làm đội trưởng đội sản xuất rồi!". Nhưng Keng vẫn cứ trơ ra, chẳng mảy may xúc động. Các cô gái làng, không hiểu sao lúc này đối với anh chỉ hiện lên như những cái bóng. Anh cảm thấy chẳng có gì dính dáng giữa anh và các cô...

- Thôi đi, bố đừng có dài dòng văn tự. Vợ với chả con!

Keng phát khùng, buông bát đũa xuống, đi ra ngõ. Anh cứ đi, đi mãi dọc đường làng. Và anh nghĩ vơ vẩn một mình : "Mình cũng phải lấy vợ chứ nhỉ? Vợ mình là cô nào ở làng này nhỉ?"

Keng đã đi đến ngõ nhà Lạt lúc nào không biết.

- Anh Keng ơi, mời anh vào chơi.

Chị cả Lạt đứng ở góc sân. Chừng như chị đợi anh từ lâu lắm, mâm cơm còn nguyên, cả đĩa tiết canh, phần lòng thì vẫn để trong sanh nước xuýt, chưa thái:

 - Chẳng mấy khi, anh ngồi ăn lưng cơm với chúng tôi cho vui đi!

Bà mẹ và người chị dâu Lạt cũng đon đả mời. Anh giãy ra:

- Tôi ăn rồi.

- Thì tôi cũng ăn rồi. Ăn ở đằng... kia (Lạt định nói ăn ở nhà chồng, nhưng chị lái lại được ngay). Anh ngồi xuống đây một tí cho vui - Lạt vừa nói vừa kéo Keng ngồi xuống, nhanh nhảu xẻ tiết canh, so đũa, dúi vào tay anh - Này thôi ăn đi, vẽ vời, khách khứa đâu mà... Từ khi anh lên làm đội trưởng, vất vả biết bao nhiêu...

Rồi Lạt ép anh uống rượu. Một cút rượu nhỏ xíu thôi. Keng định bụng chỉ tợp vài ngụm gọi là  - cái giống rượu, anh chúa ghét! - nhưng không được. Lạt cứ tiếp cho anh đầy cả bát: nào miếng gan, miếng tim, nào miếng dồi, miếng cổ hũ... Keng đâm say. Ngoài Lạt ra, anh chẳng nhìn thấy ai nữa. Ðôi mắt Lạt nhỏ dài ẩn dưới hàng lông mày rậm trông càng đen nhánh và cái mũi dọc dừa thanh thanh mới xinh làm sao. Anh sợ không dám nhìn lâu vào mắt Lạt, anh chỉ nhìn độc cái mũi thôi, càng nhìn càng thấy kỳ lạ, sao cái mũi dọc dừa đẹp thế mà từ trước đến nay anh không biết. Anh chỉ biết cái mũi của Ngọ, gãy và ngắn ngủn. Anh bỗng tin một cách chắc chắn rằng béo và gẫy mũi như Ngọ nhất định vô duyên, phải nhỏ nhắn và mũi dọc dừa như Lạt mới duyên. Những ý nghĩ mới mẻ và thật thà ấy lúc tỏ lúc mờ, lúc gần lúc xa, lúc lớn lên, lúc nhỏ đi, cứ xoay tít trong đầu Keng. Hai con mắt Keng đỏ ngầu, đờ ra. Toàn thân anh chao đảo. Rồi anh nằm vật xuống, chẳng còn biết trời đất gì nữa...

Xế chiều, Keng thất thểu về nhà. Chuyện anh say rượu Lạt phải bôi vôi vào gan bàn chân và nấu nước đậu xanh cho anh uống đã bay về trước anh từ lúc nào. Vừa trông thấy mặt anh, ông Keng đã gầm lên:

- Thằng kia, tao tưởng mày giỏi giang thế nào, để con mẹ góa nó bỏ bùa mê thuốc lú cho ăn mà không biết nhục à?

- Nhục? - Keng giương mắt lên nhìn bố. Chưa bao giờ trông anh lại dữ tợn như vậy.

- Muốn sống thì khai ra: mày với nó là thế nào, hử?

- Chẳng thế nào!

- Thế thì cút mẹ mày đi, cho khỏi vướng mắt tao!

Cửa nhà ầm ĩ lên một lúc. Bà Keng phải can hai người, kéo Keng xuống nhà ngang. Keng đánh một giấc thẳng đến tối. Tỉnh dậy, vẫn thấy bố đang cáu kỉnh với mẹ ở nhà trên, về chuyện của anh, những "gái khôn tránh khỏi đò đưa, trai khôn tránh khỏi vợ thừa người ta" và biết bao nhiêu tội lỗi khác từ ngày đầu anh còn trọc lốc.

"Vợ thừa! Ông cứ ra làm đội trưởng, quan hệ với người ta một dạo thử xem. Người ta như thế mà bảo là vợ thừa à?" Keng ấm ức nghĩ vậy, rồi lẳng lặng bỏ đi. Cũng chẳng định trước là đi đâu. Và cứ tự nhiên, anh lại đến nhà Lạt...

Bây giờ thì Keng nhất quyết lấy Lạt. Làng xóm điều ra tiếng vào cũng nhiều, nhưng lấy Lạt đâu phải là một cái tội nên chẳng ai dại gì dây dưa vào. Lúc đầu bà mẹ Keng cũng không đồng ý. Về sau, vốn tính ôn hòa, bà xiêu xiêu dần: "Thôi, mặc mẹ nó, đời cua cua máy, đời cáy cáy đào!" Rút cục, chỉ còn độc ông Keng là khăng khăng phá. Càng phá, Keng càng lỳ ra. Anh chẳng cãi, cũng chẳng van xin, chẳng gì hết.

- Thôi được, mày đã chó đen một mực thì ông cho mày miếng đất ở bìa làng, vợ chồng đem nhau ra đấy mà ở. Còn cái cơ ngơi này ông để cho thằng Chỉnh, ông lập nó làm trưởng, ông không cần mày. Ðồ ngu như chó, làm cỗ bưng đến tận miệng cho ăn còn bỏ. Chúng mày giỏi chúng mày tu tạo lấy, túng thiếu đừng có vác rá đến nhà ông!

Cái dinh cơ, đối với Keng lúc này chẳng còn nghĩa lý gì: nó không đem lại sự yên ấm cho anh. Còn đời sống của vợ chồng anh thì đã có hợp tác đảm bảo rồi. Vả lại đã cho vợ chồng anh ra ở riêng, thế nào cũng phải cho anh mấy cây xoan với bè tre ngâm vẫn dành sẵn để làm nhà cho thằng Chỉnh. Còn thiếu thốn gì thì giật mượn bà con, chồng cày vợ cấy, cháo nóng húp quanh, công nợ trả dần cũng phải xong.

Thấm thoắt, chỉ tháng trước, tháng sau Lạt đã có mang. Bụng chị mỗi ngày một tròn căng ra, thoi loi, hơi nhòn nhọn. Chị đi ngoài đường, bụng cứ đưa ra phía trước hai tay ve vẩy, dẻo như múa. Chị mua cá chép tươi nấu cháo ăn bổ thai. Người chị tươi ra. Chị cười, chị nói. Và chị làm ra làm.

- Này, các bà ơi, sao các bà lại cắt công cấy của cháu? Cuối năm cháu đã nằm xó rồi, phải ưu tiên cho cháu mới phải chứ!

- Thì việc bề bề ra đấy. Dưng mà anh Keng anh ấy bảo...

- Dào, anh ấy bảo gì thây kệ anh ấy!

Keng yêu vợ, muốn vợ nhàn. Lạt thương chồng, nhất định không nghe anh. Chị cấy giỏi, được bầu làm tổ trưởng.

Hai vợ chồng bao giờ cũng dậy sớm nhất xóm. Keng đi đốc thúc công việc toàn đội. Lạt đi gọi các bà thợ cấy. Bao giờ chị cũng có ý về sớm hơn anh một chút để lo cơm nước. Nhưng nhiều buổi chị về đến nhà đã thấy anh hí húi ở dưới bếp rồi. Chị vội vàng cất nón, giằng lấy que cời. Anh quắc mắt lên, gạt tay chị ra, đưa cho chị cái quạt mo và quát chị bằng một giọng vui vẻ: - Mặt chín rừ ra như sốt thế kia kìa! Lên đầu hè ngồi quạt đi một chốc rồi ra ao mà rửa ráy!

Nào chị có sốt. Chị sung sướng quá đấy thôi. Quãng đời góa bụa trẻ trung của chị kéo dài như một mối nghi vấn nặng nề đã chấm dứt rồi. Người ta bắt đầu nhìn cuốn sổ công điểm dày đặc những con số của vợ chồng chị bằng đôi mắt thèm muốn, hơi có chút ghen tị và cái nếp nhà nhỏ bé, mái rạ chưa kịp ngả mầu ngày càng thu hút bà con chòm xóm đổ lại chơi.

***

Cuối năm, gặt hái còn chưa xong thì Lạt thấy nặng bụng không đi làm được. Bao nhiêu công việc đổ cả lên đầu Keng. Anh bận tối mắt tối mũi, mười giờ đêm vẫn còn ở sân phơi. Thóc lúa rơm rạ cứ bộn lên quanh người, bụi bậm đầy đầu tóc. Rồi nhập kho, xuất kho, cân kéo, sổ sách với biết bao nhiêu chuyện phiền toái. ấy thế mà còn việc nhà: vại gạo đã hết nhẵn, thóc vẫn chưa xay. Keng mệt quá, chỉ nghĩ đến cái cối thôi anh đã phát hoảng. Anh đành vác rá về nhà, hỏi vay riêng bà mẹ mấy bát. Bà mẹ thương con, cho giấu nửa nồi gạo. Ðêm, bà lại ra xay đỡ cho mấy cối lúa. Vừa lúc ấy, Lạt chuyển dạ.

Thằng bé con ra đời, chắc nịch, đôi môi đỏ chót, tiếng khóc vang choe chóe. Bao nhiêu chuyện không vui trong lòng bà Keng bay biến đi đâu sạch. Bà cứ quanh quẩn bên giường con dâu suốt đêm không chợp mắt. Tờ mờ sáng hôm sau, bà tất tưởi về nhà, vừa bước chân qua cổng đã làm toáng lên:

- Ông nó ra mà chơi với cháu. Nhà Keng nở con giai rồi!

- Con gi... ai à?

- Ừ, con giai. Tai nó to to là. Y như tai Phật!

Ông Keng cười khẩy, cố làm ra vẻ lạnh nhạt. Và ông mang rượu ra uống, uống suông một mình. Bữa rượu thực vô vị, chỉ thấy cay sè. Nhưng ông vẫn cứ uống. Ông cũng chẳng biết mình vui hay buồn...

Những ngày đầu, nhiều lúc Keng không dám tin mình đã có con. Anh đã có con thật, con giai, mới lạ lùng chứ. Thằng bé con anh nó khóc, nó đòi bú, nó tè, rồi nó cười - bé bằng cái hạt mít mà đã biết cười! - Tất thảy đều mới mẻ đối với anh. Anh không dám bế nó, sợ lọt tay. Chú Chỉnh thì dứt khoát anh không cho bế rồi. Ngay cả cô Trinh bế cháu gọn ghẽ thế, anh cũng sợ. "Trai nuôi vợ đẻ gầy mòn" nhưng anh chẳng nề hà gì. Cơm nước, giặt giũ, tã lót... lúc nào bà nội, bà ngoại cháu bé chạy lại giúp thì thôi, còn không anh làm tuốt. Và anh cứ chạy ra chạy vào ngắm con suốt buổi.

Ngày đầu cữ thằng bé, anh thịt con gà, mua cút rượu, mời bố ra chơi.

- Thôi ông ơi, ông bớt giận... - Thấy chồng chần chừ, bà Keng giục khéo.

- Tôi đã bảo với bà rằng họ nhà tôi không phải họ nhà tôm, cứt lộn lên đầu, bà đã hiểu chưa? - Ông Keng đã toan đi, vội quay ngoắt lại.

- Sao tôi lại không biết! Dưng mà, nói cho cùng mình cũng chẳng thể chê trách vợ chồng nó được điều gì. Ông cứ ra nhà nó thử xem...

- Tôi không phải thử. Tôi biết tỏng đi là chúng nó tài giỏi lắm rồi. Không ở cái lò nhà này ra mà tài giỏi được như thế à? Tôi đã ra là tôi ra để dạy bảo chúng nó... - Ông Keng gầm lên, chấm dứt câu chuyện một cách đột ngột và hầm hầm đi ra ngõ.

Hôm ngồi uống rượu với bố, Keng nhớ rất rõ lúc đầu ông cụ có vẻ miễn cưỡng và đôi mắt nhìn vừa lạnh nhạt vừa soi mói của ông như muốn nói: "Chẳng qua là vì thằng cháu tao chứ tao mà thèm ngồi uống rượu cùng chiếu với ngữ mày à!" Nhưng Keng không hề nao núng. Anh cứ lẳng lặng uống rượu, còn nhiều hơn cả bố anh và cứ lầm lì như thế, anh lôi cuốn bố anh vào cuộc vui khiến ông không sao cưỡng lại được. Tuy vậy, nhìn vợ Keng ông vẫn cứ thấy vướng mắt thế nào. Nó nựng nịu con nó thì tha hồ. Ðằng này, nó lườm chồng, giật lấy cái chai trong tay chồng, dốc tất cả rượu vào chén cho ông! Ông giận dữ san rượu sang chén của Keng, sai vợ Keng lấy nước mắm rồi nói, lưỡi líu lại:

- Nó không muốn cho anh uống, anh lại càng phải uống. Cứ uống cho say vào. Anh hãy thử ngẫm đời bố anh mà xem. Làm thằng đàn ông muốn dựng nên cơ nghiệp thì không được để vợ nó xỏ mũi, nghe chưa!

Chính qua giọng nói bầu bạn và hơi suồng sã ấy, Keng bỗng nhận ra một sự thay đổi rất lớn lao trong quan hệ giữa hai bố con anh. Từ trước tới nay, bố anh vẫn là người to nhất nhà. Bây giờ anh cũng đã có gia đình riêng. Anh cũng là người to nhất nhà. Không anh thì còn ai nữa: Suốt vụ gặt mùa, độc một mình anh làm quần quật. Anh bảo đảm cơm áo cho tất cả - vợ anh, con anh. Ðời nào anh lại để cho vợ xỏ mũi! Hễ vợ nói gì là anh gạt phắt ngay đi:

- U em không phải lo lắng gì cả. Cứ ở nhà mà ôm con. Con nó không ươn sài là tốt rồi. Còn mọi việc để mặc tôi!

Ban đầu, Lạt cũng cho thế là phải. Chị chỉ quanh quẩn ở nhà với con, lúc nào cũng nâng thằng bé như nâng trứng. ít hôm sau, Lạt đã khỏe, ra gió không thấy chóng mặt nữa, nỗi nhớ đồng dần dần thức dậy trong lòng chị. Ðêm nào đội sản xuất họp chị cũng không ngủ được, cứ ôm con đi ra đi vào, lắng nghe những tiếng ồn ào từ bên kia rào vọng sang, cố đoán xem người ta đang bàn bạc, tranh cãi nhau chuyện gì. Vừa thấy tiếng kẹt cổng, chị đã hỏi luôn:

- Thầy em về đấy ư? Họp gì mà ồn lên thế?

- Gần nửa đêm rồi sao không đi ngủ đi? - Keng trừng mắt nhìn vợ, tỏ vẻ không bằng lòng. Nhưng Lạt cũng chẳng kém, chị nhìn lại anh trân trân. Keng đành phải trả lời, gắt gỏng - Họp chia công điểm vụ chiêm!

- Thế nhà ta nhận bao nhiêu?

- Tôi xin rút hăm nhăm công.

- Sao lại rút?

- Thì u em tính, có độc mình tôi, lại còn công tác. U em thì vụ cấy này hẵng cứ "cho ra ngoài vấn đề!"

- Ngoài vấn đề! Lạt bật ngay dậy - Tôi khỏe rồi, mai tôi đi làm cho xem. Quanh quẩn ở nhà mãi, cuồng cả chân cả tay lên!

- Dào, sợ rồi không có sức - Keng kéo dài giọng mỉa mai - Dưng mà bây giờ tôi thử hỏi, u em đi làm thì vứt con cho ai?

- Tôi gửi nhà trẻ.

- Nhà trẻ? Hay hớm lắm đấy! Người ta con đàn con lũ, người ta mới gửi nhà trẻ. Ðằng này mình...

- Mình làm sao? Ðừng có mà giở chứng!

Lạt bế con ra gửi nhà trẻ thực. Chị đi trồng màu.

Bấy giờ đã cuối tháng chạp. Lúa tháng chạp, đạp không đổ. Hợp tác dồn toàn bộ nhân lực ra đồng, quyết giật cờ thi đua cấy chiêm xong trước tết của huyện. Keng đi suốt ngày, đêm đến lại họp hành, mờ cả mắt. Anh phải tổ chức nhổ mạ thi, cấy thi và hàng đống công việc tuyên truyền động viên khác. Ấy thế mà về đến nhà, nhiều khi cơm nước vẫn chưa xong, con chưa đi đón về, là vì tổ trồng màu cứ bị rút người dồn sang bộ phận làm chiêm. Lạt không thể về sớm được... "Chuyện mới lạ lùng chứ, đàn bà không ở nhà cơm nước, không trông nom bú mớm cho con là nghĩa làm sao?" Keng nghĩ vậy và anh gắt toáng lên.

Áp Tết, đội Keng cấy vẫn chưa xong, lại toàn phải cấy vá đồng. Rồi còn phải cày màu gấp, đợi mưa xuân. Giữa lúc ấy ông chủ nhiệm đến gõ đầu anh:

- Sao không điều trâu sang tương trợ đội ba, hử ông anh?

- Thì tôi đã bảo... - Keng đang nóng ruột như lửa đốt, giọng càu nhàu.

- Bảo cái con tườu! Ông chủ nhiệm la lên - Anh chỉ biết khư khư ôm lấy cái đội của anh thôi. Ðội ba nó để chết trâu, lỗi ở nó, nhưng giờ nó cày chiêm còn chưa xong, mình là cán bộ của hợp tác xã, mình phải nghĩ đến quyền lợi chung chứ... Thôi, anh điều ngay hai con  trâu đang cày màu về đi. Keng đi nhổ mạ, lòng ấm ức không yên. Nghĩ đến hai con trâu của đội mình phải cho đội người mượn ruột anh xót như bỏ muối. Cứ như ý anh, các đội đã được chia phần đều nhau rồi, anh nào vụng tay thì sảy miệng, cho thế mới trắng mắt ra. Nhưng về đến nhà, tuyệt nhiên anh không hé răng nói cho vợ biết câu chuyện đó. Anh tự hiểu, "đứng trên tinh thần cán bộ", nghĩ như anh là sai. Vả lại đó là chuyện công tác của hàng ngũ cán bộ, chuyện đàn ông với nhau, chuyện riêng của anh. Anh là chủ gia đình. Còn vợ anh, dù sao cũng là đàn bà... Kể từ hôm đó, anh đâm ra lì lợm, bắn gắt, vợ nói gì cũng gạt phắt đi.

Hai mươi chín Tết, Keng vẫn phải chạy suốt ngày vì theo quyết định chung, đội anh phải dốc toàn lực ra đồng cấy cho xong. Tối nhọ mặt người, Keng mới về nhà, bụng đói meo, chân tay mỏi rã rời.

Bữa cơm đã dọn sẵn, có lòng lợn, nước suýt và một cút rượu nhỏ, xem ra đã có mùi Tết rồi. Hai vợ chồng ngồi ăn, vừa trò chuyện, vừa nhìn ngắm nhau thực vui vẻ. Keng bỗng nhớ hôm nào, anh say rượu ở nhà Lạt. Hôm nay anh cũng phải say như thế, hoặc hơn thế. Thì đã sao! Anh say ở nhà anh, người vợ đảm đang và rất mực yêu chồng sẽ săn sóc anh kia mà! Giữa lúc Keng đang mơ màng. Lạt đứng dậy:

- Ðêm nay thầy em ở nhà trông nồi bánh nhá. Tôi đi đây... Ðến khuya tôi mới về.

Keng choàng tỉnh ngay khỏi cơn say:

- Ði đâu mà khuya mới về?

- Ði cấy.

- Cấy hứ?

- Chứ gì. Phải hùa vào cấy cho chóng xong còn về ngủ để mai đi chợ huyện sớm mua thức nấu. Ba ngày Tết chẳng nhẽ ăn thịt không à? - Lạt dừng lại, rồi hạ giọng xuống như dỗ dành - Thầy em xem, người ta đã đốt đèn măng sông sáng trưng lên ở ngoài đồng kia kìa.

Ánh đèn măng sông hắt qua bụi tre chiếu vào tận sân nhà Keng, soi tỏ những vạt sương xanh mỏng bay rập rờn như khói. Chính Keng đã bàn với tổ thanh niên xung kích đốt đèn măng sông đem ra đồng. Nhưng đấy là chuyện khác...

- Không đi đâu cả - Keng bỗng quát lên - Ði rồi vứt con ở nhà cho ai?

- Còn cho ai?

- Tôi hứ? Tôi không có vú để bịt miệng nó!

- Không có thì chạy sang bà Thủy cho nó bú nhờ - Lạt dừng lại rồi bỗng chạy vào buồng bế con ra - Hay thôi, để tôi đem gửi dì nó quách cho anh được nhẹ mình!

Thấy vợ đi, dáng quả quyết, Keng đứng phắt ngay dậy:

- U em, không đi đâu cả. Tôi đã bảo...

- Anh bảo cũng chẳng bằng chị em người ta bảo tôi. Trái lè lè...

Lạt hất tay chồng rồi bế con đi ra ngõ, vừa đi vừa hôn hít nựng nịu thằng bé, như để trêu tức chồng.

Keng ngồi trơ một mình. Anh không dọn mâm bát, không nhóm bếp luộc bánh, không gì hết. Anh đi nằm, trùm chăn kín mít, ấm ức một mình. Rồi sau anh điên tiết lên, không ấm ức nữa. - Mình thương yêu nó, mà nó tệ. Ðược giữ cái chân tổ trưởng tổ cấy một vụ, bén mùi rồi mà, cứ tớn mãi lên. Nó đã bảo mình trái thì mình trái cho nó biết! - Và anh quay ra ngủ luôn.

Lát sau, Keng choàng tỉnh dậy. Bên hàng xóm có tiếng gà kêu quang quác và ánh lửa ninh bánh chưng hắt qua kẽ vách nhà anh thành những đường kẻ vàng rực. Keng đã dã rượu, nhớ ra ngay tại sao nhà mình lại vắng vẻ và tối như hũ nút. Anh bàng hoàng cảm thấy bầu không khí bao quanh anh sao căng thẳng, nặng nề, giống như bầu không khí trong gia đình anh cũ, bầu không khí đã từng làm anh bức bối và anh đã cố thoát ra. Thực quả anh không chủ bụng ngủ. Không hiểu sao anh lại ngủ, cứ y như bị ma làm... Anh vội vàng chạy ra sân, vã nước lên mặt và kiễng chân nhìn qua rặng tre, dõi tìm vầng sáng xanh trong của ngọn đèn măng sông ngoài đồng xa. Rồi lật đật xuống bếp, xòe diêm, nhóm lửa đun nồi bánh. Anh đun thốc đun tháo, bao nhiêu củi gộc chất vào cũng không thấy vừa, cứ chốc chốc lại mở vung nồi ra ngó xem nước đã sôi chưa.

1963

 

TRÁI CAM TRONG LÒNG TAY

Trong đời riêng mỗi người, đôi khi có những sự việc chẳng ý nghĩa gì đối với người khác, nhưng với bản thân anh ta lại là một cái mốc quan trọng. Tôi đã gặp một sự việc như thế: đó là cái tai nạn đổ xe bất ngờ xảy đến với tôi, trong một chuyến đi công tác vui vẻ chưa từng có. Chiếc xe bị bẹp mũi, tấm kính chắn gió bị vỡ tan. Cậu lái xe nằm bất tỉnh, máu me đầm đìa nhưng rốt cuộc cậu ta chẳng làm sao hết. Còn tôi, ngay lúc đó đã gượng ngồi dậy được, thân thể còn nguyên vẹn vậy mà phải nằm bệnh viện đúng ba tháng, chịu mổ xẻ, đau đớn, trong tình trạng gần như tuyệt vọng. Có những chấn thương bên trong thế nào đó, không thể nói cho thật rạch ròi. Nhưng dần dần chúng tự thu xếp và ổn định lại, chỉ còn gióng xương đùi bên trái bị giập nát là phải mang cái nẹp kim loại, với những đinh ốc vặn chặt, cũng bằng kim loại. Tôi bắt đầu tập ngồi, tập đứng, tập đi chập chững từng bước một, như đứa trẻ nhỏ. Cho đến khi bệnh viện chuyển tôi đến trại an dưỡng X, thì tôi tin chắc thế là tôi đã sống lại, tâm trạng tôi vừa rụt rè vừa náo nức lạ thường. Trại X. rất nhỏ, nằm lọt thỏm giữa một vùng đồi vắng vẻ, số giường đã ít, số người đến nghỉ lại càng ít hơn. Tôi ở chung phòng với Vĩnh, một ông già gầy khô, khắc khổ nhưng không có vẻ ốm yếu. Mãi mấy ngày sau tôi mới biết bệnh trạng của Vĩnh và điều đó làm cho tôi bối rối. Vĩnh phải cắt một bên phổi, từ nhiều năm trước. Gần đây, bên phổi còn lại bỗng nổi một khối u ác tính, các bác sĩ đã mổ ra xem rồi buộc lòng phải đóng lại... Tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ so sánh, mặc dầu hiển nhiên nhưng không thể chấp nhận, rằng mình và Vĩnh đang đi ngược chiều: mình vừa từ biên giới của cõi chết trở về, còn Vĩnh thì... Hình như Vĩnh cảm thấy nỗi băn khoăn của tôi. Ông vui vẻ và chủ động săn sóc đến tôi, hỏi han tôi đủ điều. Tôi kể với ông rằng, tôi đi đây đó đã nhiều, thay đổi công tác cũng nhiều và có lẽ do thế, gần đây được chuyển sang làm cán bộ nghiên cứu. Nhân tiện, tôi khoe với ông, tôi cũng có viết lách được đôi tý. Những bài viết không đến nỗi xoàng, chỉ có thiếu sót nhỏ là chúng quá ít ý kiến mới mẻ và quá nhiều những chữ thừa! Vĩnh cười, vỗ nhẹ vai tôi:

- Cậu giỏi! Còn mình là anh cán bộ đốc chiến, suốt đời chỉ có làm, làm, làm. Nhưng dù sao mình cũng giống cậu được hai điểm: Mình đi đây đi đó cũng nhiều; hai nữa, thi thoảng phải ngồi viết báo cáo, mình cũng sản xuất ra kha khá những chữ thừa!- Vĩnh ngừng giây lát rồi ông bỗng nói, tỉnh táo đến lạnh lùng- Cậu thấy đấy, mình già rồi, bệnh tật, sắp chết rồi! Nhưng trước khi chết, mình vẫn sống, y như cậu vậy. Đừng băn khoăn vớ vẩn gì cho mình, nghe chưa!

Ngày hai buỏi đều đặn, tôi bắt buộc phải đi dạo, để tập luyện đôi chân. Tay chống chiếc gậy hèo nho nhỏ, tôi tập tễnh đi quanh sân trại. Rồi tiến dần lên, đi ra ngoài cổng trại, đến tận đầu mút mỏm đồi hơi nhô ra - nơi đó có cây long não già, cao vút, tán lá xanh nõn nà, những phiến lá lăn tăn lúc nào cũng gợn sóng lên, như vẫy gọi. Đứng dưới gốc cây long não, có thể nhìn thấy con đường dốc lượn dưới chân đồi, những khe đất xanh rì cây dại và xa hơn, thấp thoáng một xóm nhỏ, lưa thưa rặng tre với vài chục nóc nhà. Có một cô gái từ nơi xóm nhỏ vẫn thường đến đây cắt cỏ. Lần đầu tiên trông thấy tôi, cô nói ngay: "Cháu chào chú. Chú vừa mới đến trại hẳn?" Giọng cô tỏ ra hết sức thân thuộc với nơi này. Dần dà, cô chú ý đến tôi hơn. Cho đến một hôm cô thấy tôi đi khập khễnh, tay chống gậy, mặt tái nhợt và luôn luôn nhăn nhó, cô ngạc nhiên hỏi tôi: "Chú đau chân à?". Tôi vỗ nhẹ lên bắp đùi bên trái, tiết lộ với cô rằng ở trong đó, giữa hai ống xương bị gẫy, có cái nẹp và những đinh ốc bằng kim loại. Cô gái tròn xoe mắt, hấp tấp nói: "Tại sao lại như thế hả chú?" Tôi kể cho cô nghe những gì tôi đã trải qua. Cô rùng mình, nhìn tôi chăm chú rồi bật kêu lên:

- Trời ơi, tai nạn như thế mà chú còn sống được thì tài quá!

- Nào tôi có tài giỏi gì đâu! Trước hết, tôi sống được là nhờ bệnh viên, nhờ các bác sĩ. Và sau hết, có lẽ là... là... vì tôi còn quá nhiều ràng buộc với cuộc đời này chăng?

Ý nghĩ về sự ràng buộc đột nhiên loé sáng trong đầu tôi, chính vì cái vẻ tò mò không che giấu, sự hồi hộp, lo lắng pha chút trẻ thơ của cô gái cắt cỏ hoàn toàn xa lạ, thoắt trở nên gần gũi đối với tôi. Cô ngồi dưới gốc cây, xế trước mặt tôi, chiếc liềm cắt cỏ để bên chân. Bàn chân cô thô nhám, với những ngón chân hơi ngắn và những vết nứt li ti quanh gót, hoàn toàn trái ngược với đôi bàn tay thon dài, khuôn mặt xinh xắn, vầng trán cao vừa phải nhờ những sợi tóc che loà xoà. Cô bé nhỏ, dịu dàng và nghiêm nghị, vừa trẻ lại vừa già so với lứa tuổi cô... Bỗng cô nói với tôi, vẻ như chẳng ăn nhập vào đâu hết:

- Chú ơi, giá như bố cháu còn sống, bố cháu gặp chú, trò chuyện với chú, chắc bố cháu vui lắm!

Tôi không hiểu điều cô gái nói, chỉ cảm nhận nó như một nỗi niềm, một lời an ủi. Nhưng cô gái không dừng lại ở đó, cô cầm cái liềm, bổ nhẹ mũi liềm xuống nền đất sỏi, làm vài viên sỏi bị văng đi, toé lửa và cứ thế, cô vừa bổ nhẹ mũi liềm, vừa hăm hở nói:

- Chú có biết vùng đồi này trước đây là một vùng như thế nào không? Một vùng hoang vắng, khô cằn, chỉ có nắng và bụi. Và chú có biết muốn lập nên làng xóm, sinh sống được ở đây thì cần gì không? Cần có nước! Không phải cháu định giảng giải cho chú đâu. Cháu chỉ muốn kể cho chú nghe về bố cháu… Nhưng trước hết, cháu hỏi chú, chú đã bị khát bao giờ chưa - khát cháy họng, rã rời chân tay, mắt mờ đi, ngạt thở? Hồi gia đình cháu, cùng với một số bà con từ dưới xuôi lên đây khai hoang, cháu còn bé tí, cháu đã bị khát như thế. Cháu sợ cái khát quá, ban đêm cháu ngủ, toàn mê hoảng. Cháu thấy một con quỷ, bụng nó to khủng khiếp và nó cứ lượn quanh cháu, cái bụng lắc lư, nước trong bụng nó kêu óc ách. Cháu kêu thét lên, ôm choàng lấy cổ bố cháu. Bố cháu hỏi: “Con làm sao thế?” Cháu nói quấy quá: “Không, con không làm sao…” nhưng rồi lại bật ra: “Con chỉ muốn uống nước thôi”. Thế là bố cháu đi tìm nước. Thoạt đầu mò mẫm cứ thấy chỗ nào thấp, đất hơi mềm, lưa thưa cỏ mọc là bố cháu đào giếng. Đào cho cả xóm, cả làng. Bố cháu đã đào hàng trăm cái giếng. Hàng trăm cái, cháu nói không ngoa đâu. Bởi vì có vô số giếng bố cháu đào, cứ sang mùa khô là nước biến đi đâu hết sạch. Những cái giếng chết. Bố cháu đi lại quẩn quanh giữa những cái giếng chết ấy, vò đầu bứt tai, nhìn ngắm rồi đi tìm một sườn đồi khác và lại đào… Ban đầu, mỗi khi bố cháu đào giếng, cần có một người phụ, đứng trên cao kéo những sảo đất từ dưới sâu lên. Về sau bố cháu đào một mình. Một mình cúi lom khom dưới cái đáy hang thăm thẳm, dùng cái xẻng ngắn cán hất từng xẻng đất qua vai, đất bay lên rơi lộp bộp trên nền cỏ… Lúc bấy giờ bọn trẻ con chúng cháu thường chơi quanh quẩn bên chỗ bố cháu đang đào giếng. Cái hình ảnh đất cứ tự dưng từ đâu đó bay lên, đã khắc sâu vào trí nhớ của cháu đến mức, cho đến bây giờ, mỗi khi đi cắt cỏ, cháu khát, cháu ngó quanh tìm  nước là lại thấy nó hiển hiện. Mẹ cháu thỉnh thoảng cũng mơ thấy cái đó. Và mỗi lần mơ thấy, tỉnh dậy, mẹ cháu lại khóc. Chú có biết vì sao không?

Tôi im lặng.

- Là vì, suốt thời gian bố cháu lăn lóc với việc đào giếng, mẹ cháu là người rầy la bố cháu nhiều nhất. Cái xóm khai hoang của cháu chỉ có một nhúm gia đình, đã phải chuyển dịch loanh quanh qua bao nhiêu đồi. Nhiều nhà bỏ về. Mẹ cháu, nghe mấy bà bạn rủ rê cũng muốn bỏ về. Nhưng mà vướng bố cháu. Mát mẻ, hơn dỗi chán chê không được, cuối cùng mẹ cháu nổi đoá lên, la hét vào tận mặt bố cháu: “Ông không sinh ra ở cái đất chó ăn đá, gà ăn sỏi này, có cái gì ràng buộc ông mà ông cứ phải hì hục đào ngoáy quanh năm suốt tháng như thế?”. Bố cháu không nín nhịn được, cũng la lên: “Mọi cái ràng buộc tôi, mà cũng chẳng có cái gì ràng buộc tôi! Bà đã lý sự với tôi thì tôi trả lời bà thế đấy! Nhưng thôi, tôi không lý sự, tôi van bà, bà hẵng để cho tôi đào nốt cái giếng này, cái giếng mà tôi đoán chắc với bà nước mạch phải đầy ắp!”. Bố cháu đã dùng mưu mẹo như thế đấy, để tiếp tục đào cho đến cái giếng thứ một trăm.

… Buổi sáng hôm ấy tôi về muộn. Trong phòng, Vĩnh đang đứng trước khung cửa sổ mở rộng, tập thở theo phương pháp dưỡng sinh. Nghe tiếng động nhẹ nơi cửa ra vào, Vĩnh quay lại:

- Lại ra chỗ gốc cây long não nói chuyện lẩn thẩn với cô bé cắt cỏ, hử?

Tôi bỗng trở lên bồng bột, khoe ngay với Vĩnh rằng, hôm nay tôi không chỉ hỏi cô bé những câu lẩn thẩn mà ngược lại, chính cô bé đã trò chuyện với tôi về gia đình cô, về người cha đã khuất của cô. Cô đã thành mối dây liên lạc giữa tôi với cuộc đời rộng lớn, khiến tôi có thể hoà nhập trở lại, vào cuộc đời ấy. Tôi còn khoe thêm với Vĩnh rằng, nhờ cô gái mà tôi biết, dưới xóm nhỏ của cô, có những nhà đã trồng được cả cam, giống cam rất quý, lần đầu tiên du nhập được vào vùng này. tôi đã gửi tiền cô gái, nhờ cô mua cho ít trái cam.

- Cậu khá hơn mình đấy! Mình vốn là lính trinh sát, lại lên đây trước cậu, vậy mà mình chẳng hay biết gì cả!

Vĩnh vừa tiếp tục bài tập dưỡng sinh vừa nói, vẻ bâng quơ. Tôi tưởng ông giễu cợt tôi, giễu cợt cái chú bé con đang sống trở lại dưới cái vỏ bề ngoài người lớn, là tôi. Nhưng những sự việc xảy ra sau đó đã cho tôi thấy là tôi lầm…

***

Sau đó, tôi không gặp cô gái cắt cỏ. Có thể là cô bận việc gì, cũng có thể do thời tiết xấu, cô không muốn đi xa. Mà thời tiết xấu thật: chẳng ra nắng cũng chẳng ra mưa, bầu không khí nặng nề, ẩm ướt, lúc thì oi bức, lúc ớn lạnh đến rùng mình. Vĩnh thở rất khó khăn, ông nằm gần như suốt buổi trên giường, nghiến răng chịu đựng những cơn đau và thiêm thiếp ngủ. Tôi cũng chỉ dám đi dạo loanh quanh, dọc theo hành lang mấy dãy nhà. Cuối cùng, không sao chịu đựng nổi cơn nhức nhối từ bắp đùi bên trái lan ra khắp thân thể, tôi đành quay về phòng nằm ngủ thiếp đi… Lúc đó là buổi chiều. Một tia nắng xế, lọt qua khe cửa sổ, chiếu chếch vào mặt Vĩnh khiến ông tỉnh dậy. Ấy là sau này tôi nghe Vĩnh nói lại chứ lúc ông khẽ gọi tôi, tôi bừng mắt thì Vĩnh đã mở tung cửa sổ và mắt tôi bị chói loà trước một khung trời đỏ rực.

- Mình vừa mơ một giấc mơ thật lạ lùng… - Vĩnh giữ tôi ngồi trên giường, còn ông kéo chiếc ghế nhỏ, ngồi sát đầu giường tôi, ông nói vội vã như có cái gì sợ bị quên - nhưng trước hết mình muốn biết, cậu có hay mơ không đã? Cậu thường mơ thấy gì?

- Tôi không hay mơ. Còn trong mơ, bên những cảnh và người hết sức thân quen, thường xen vào những chuyện xa lạ, kỳ quặc, không có dầu đuôi mạch lạc và nói chung là chẳng có nghĩa gì hết!

- Ừ, ừ… những giấc mơ, nói chung là chẳng có nghĩa gì hết! - Vĩnh nheo mắt nhìn tôi buông một câu lơ lửng, sau đó ông bỗng khoát tay, nói chậm rãi - Nhưng có điều gần đây, mình thường hay mơ thấy một cảnh tượng cứ lặp đi lặp lại. Mình mơ thấy lửa, ngọn lửa bốc cao như một đám cháy lớn và mình vùng vẫy ở trong đó. Không lần nào ngọn lửa thiêu cháy được mình. Nhưng lần nào tỉnh dậy, mồ hôi cũng toát ra  ướt đẫm lưng áo mình và ruột gan mình cứ bị nung nấu cồn cào lên. Mình chập chờn nghĩ, có lẽ trong suốt cuộc đời mình, mình đã cảm nhận được một điều gì đó, nó ẩn giấu quá sâu và bây giờ nó nung nấu ruột gan mình. Tuy nhiên, mình cũng không dám chắc. Thế rồi, bỗng dưng có một người khách đến thăm mình. Một cô bé. Cô bé xuất hiện trong phòng lúc nào, bằng cách nào mình không biết. Chỉ biết cô đứng sát bên đầu giường mình, im phắc, đôi mắt nhìn đăm đăm. Mình không nhận ra cô bé đó là ai. Đồng thời, có một ý nghĩ bướng bỉnh cứ khăng khăng cãi lại rằng, nhất định mình biết cô ta là ai. Mình đưa tay ra, chơi vơi, định nắm lấy tay cô bé, dìu cô ta ngồi xuống chiếc ghế nhỏ vẫn kê ở gần đấy. Nhưng không nắm được. Hình ảnh cô bé gần gũi, rõ ràng đến như thế mà như mờ ảo, xa vời, chỉ có đôi mắt cô dăm đăm nhìn mình là không xa vời chút nào. Có vẻ cô hơi cúi xuống nhìn mình, khẽ nói câu gì đó rồi cô nhấc cái làn vẫn để bên chân, đặt lên mặc chiếc bàn nhỏ kê sát đầu giường mình những trái cây gì đó, giống như là những trái cam… Mình tỉnh dậy vì vệt nắng xuyên chếch qua khe cửa sổ, rọi thẳng vào mắt mình. “Hoá ra là mình mơ”, mình lần ra mở cửa sổ, bụng nghĩ vậy nhưng đúng lúc căn phòng bừng sáng, mình quay nhìn thì thấy trên mặt chiếc bàn con kê sát đầu giường mình có cả chục trái cam. Thật lạ lùng. Cậu có tin câu chuyện lạ lùng này không?

Tôi không biết trả lời Vĩnh ra sao. Điều đó làm ông phật ý, ông nhích ghế, hơi né người để tôi nhìn cho rõ những trái cam bày trên đầu giường ông. Rồi ông với tay, lấy một trái cam, bàn tay ông xoè ngửa, dứ trái cam vào sát mặt tôi, như thách thức:

- Hãy xem, có đúng là cam không nào?

Đó là trái cam đích thực. Trái cam đầu mùa, vỏ mỏng và căng, múi mọng. Chưa chi tôi đã cảm thấy vị thơm ngon đích thực của múi cam thấm đậm nơi đầu lưỡi và tôi nghĩ, câu chuyện này thực ra cũng đơn giản: chắc chắn có một cô bé thực đã mang những trái cam tới đây và việc tìm ra cô bé ấy cũng không đến nỗi khó khăn gì. Nhưng tôi không dám nói ra, không dám tranh cãi với Vĩnh. Tôi linh cảm thấy rằng, đằng sau chuyện này có chứa đựng một câu chuyện khác…

Tôi ngập ngừng giây lát rồi đánh bạo thăm dò bằng cách cố tình làm ra vẻ thờ ơ:

- Thôi hãy tạm gác chuyện giấc mơ của anh lại. Anh kể cho tôi nghe một chuyện gì đó không dính dáng đến mộng mị thì hơn. Chuyện gì cũng được!

- Biết chọn chuyện gì không dính đến mộng mị được nhỉ? Mình già rồi mà, thành ra nhiều chuyện lắm… - Vĩnh trầm ngâm, sau đó ông bỗng phẩy tay, nói quả quyết - Thôi được, để mình kể chuyện này. Chuyện một cô bé… Cách đây ba mươi sáu năm, năm ấy mình hai mươi mốt tuổi, là lính trinh sát thuộc một đơn vị hoạt động độc lập, thường phải vượt vành đai trắng, vào sâu trong lòng địch. Mình bị địch bắt trong đêm vượt vành đai, vấp phải ổ phục kích của chúng. Chúng giải mình về bốt, giam dưới hầm ngầm, tra tấn mình bằng đủ mọi ngón đòn hiểm ác, vẫn không moi được ở mình một lời khai nào. Thấy mình đã hoàn toàn kiệt sức, tên đồn trưởng đem thả mình xuống cái giếng hoang ở rìa bãi hoang, sát chân rào dây thép gai, phía sau bốt. Mình bị chìm nghỉm dưới làn nước đen ngòm, hôi thối, đặc quánh những rong rêu và cỏ rác mục. Mực nước trong lòng giếng không sâu lắm; vả lại, do bản năng sinh tồn, mình giãy đạp, quờ quạng một lúc thì bíu được vào một khe lõm bên thành tiếng, hếch mũi lên thở. Mình hồi sức lại dần và nhìn thấy ô trời tròn xoe phía trên cao, cao vút, cái ô trời sao mà thăm thẳm, xanh trong, sạch sẽ và thuần khiết đến thế. Có thể mình nhìn thấy, cũng có thể mình chỉ mơ thấy chăng? Rồi đêm xuống, mình sực tỉnh và cảm thấy khát cháy họng, vội bíu vào thành giếng, leo lên. Nhưng cái thân xác mình lúc này nặng khủng khiếp, nó kéo mình rơi tõm xuống, chìm vào tối tăm và hôi thối, miệng sặc nước, chân ngập trong bùn. Cứ mỗi lần cố leo lên lại thêm một lần chìm sâu hơn xuống đáy giếng. Xuống tới tận cùng. Mình quẫy chân, chạm được vào một vật gì tròn cứng, vội tỳ lên nó. Nhưng nó cứ trượt đi. Chân mình lại sục tìm… Thế rồi, cậu có biết thế nào không, mình đã tìm thấy dưới lớp bùn sâu đáy giếng chồng chất những xương người; những xương sọ trơn nhẵn, những ống xương chân, xương tay còn rắn chắc hoặc đã mủn gãy. Xương của các đồng đội, đồng chí từng đi trước mình. Và bây giờ đến lượt mình… Không, mình không thể chết, mình phải leo lên, phải thoát ra khỏi cái lỗ huyệt lộ thiên không lấy gì làm sâu lắm này. Nhưng cũng rõ ràng là mình không thể nào leo lên, không thể nào thoát ra được. Nỗi tuyệt vọng và niềm ham sống giằng co dữ dội trong con người mình và giây phút đó mình thấy từ ô trời đêm nghiêng xuống một khuôn mặt quỷ có sừng với hai răng nanh thò dài ra, nhọn hoắt; con quỷ biến đi, thay vào đó là khuôn mặt tên đồn trưởng mắt sâu, râu rậm rồi tên đồn trưởng lại biến đi, thay vào đó là con quỷ… Nhưng dù biến đổi thế nào, cái khuôn mặt gớm guốc ấy vẫn chung một nụ cười giễu cợt khiến mình uất ức đến mức máu mũi mình trào ra. Mình còn đủ tỉnh táo quệt máu vào lòng bàn tay, thấy nó mầu đen, đặc quánh và mình áp bàn tay vào thành giếng, tưởng chừng như bàn tay mình dính chặt vào đó chính là nhờ máu… Có thể nói, mình đã sống, trong cái tư thế chết, không biết kéo dài bao lâu. Bỗng có cái gì động đậy, khẽ cọ sát vào mặt mình. Mình quờ tay, nắm lấy cái đó. Thế rồi đầu óc mình bừng tỉnh, mình nhận ra cái đó là một dây chão lớn, dòng từ trên miệng giếng xuống. Nơi tận cùng sợi dây chão buộc sẵn một vòng tròn nhỏ, mình lồng chân vào vòng chão, cố dướn người lên, hai tay níu chặt. Sợi dây chão nặng nhọc kéo mình lên, từng nấc một… Bấy giờ đêm đã khuya, mình đứng bàng hoàng trên mặt đất, thấy lờ mờ trong bóng tối một dáng người bé nhỏ và tiếng nói phào bên tai mình, như gió thổi “Anh bộ đội, anh đi theo em!”. Mình theo cái bóng bé nhỏ luồn qua hàng rào dây thép gai, bò len giữa những bụi gai rậm, đến một hõm đất được che phủ kín đáo bằng cành cây và rất nhiều cỏ khô. Mình ngồi tựa lưng vào vách sau hõm đất, hít thở hơi đất ẩm và mùi cỏ khô ngai ngái, đầu óc tỉnh táo dần trở lại và bấy giờ mình đã nhận ra người cứu mình là một cô bé gầy gò, yếu ớt, gần như mỏng manh. Cô bé ngồi ngoài cửa hõm đất, rõ rệt mà nhoè lẫn giữa đám cành cây và cỏ. Mình khẽ nói: “Này cô bé, em là ai, sao em lại cứu tôi?” Cô bé chống tay, hơi nhoài người về phía mình, tay kia dờ dẫm tìm khuôn mạt mình, ấp lonìg bàn tay lên trán mình - bàn tay cô bé lạnh giá, run bần bật và giọng cô cũng run như thế: “Anh bộ đội, chuyện của em dài lắm. Anh hãy cứ nghỉ cho lại sức hẳn đi!”. Mình im. Vì mình hiểu rằng chính cô bé cũng đang cần nghỉ, cần bình tĩnh lại…

Vĩnh ngừng, khuôn mặt ông tái nhợt vì xúc động và vì cơn đau đột ngột nổi lên. Ông khẽ lúc lắc đầu, miệng hơi há ra, bàn tay xương xẩu của ông túm chặt lấy ngực áo, khẽ giật giật, vẻ không bình thường. Tôi vội vàng nói:

- Anh làm sao thế, anh Vĩnh?

- Không, không sao cả! Cái khối u quái ác trong ngực mình chưa làm gì nổi mình đâu. Mình sống dai lắm … - Vĩnh nín thở, rồi sau đó ông thổi một hơi dài, như thổi một cái gì vướng mắc ở trong ngực ông cho nó bật ra - Suốt cuộc đời hoạt động của mình, mình đã từng chết đi sống lại nhiều lần, bắt đầu là lần bị thả xuống cái giếng hoang rồi được một cô bé cứu thoát, như cậu thấy đấy. Mà cô bé đó là thế nào, cậu biết không? Cô bé mồ côi, bị tên đồn trưởng bắt vào đồn, chăn bò cho nó. Tên đồn trưởng này vốn là quản lý đồn điền cho thằng chủ Tây. Cái đồn điền xưa kia chiếm cả một vùng đồi, ruộng mênh mông, nay là vùng đai trắng. Ngôi biệt thự của thằng chủ Tây hoang phế đã lâu, nay được xây lại thành đồn bốt và tên đồn trưởng vừa chỉ huy lính đi càn vừa nuôi mộng ông chủ đồn điền tương lai, hắn dựng lên phía sau bốt cả một dãy chuồng bò… ở trong cái hõm đất được che phủ kín đáo bằng cành cây và cỏ khô mà cô bé chăn bò giấu tôi vào trong đó, cô kể cho tôi nghe rằng, trước tôi, đã có ba mươi tám người, trong đó có một phụ nữ, bị chết dưới đáy giếng hoang. Họ đã lần lượt chết, còn cô bé thì ngày càng bị ám ảnh, bị day dứt bởi cái ý nghĩ, cô rất có thể cứu được họ. Cô tính toán một kế hoạch, ngầm chuẩn bị mọi thứ: sợi dây chão, cái khe hở nơi hàng rào, con đường rút chạy và hõm đất ẩn trốn… Nhưng những người bị ném xuống đáy giếng hoang vẫn cứ tiếp tục chết. Cho đến lượt tôi, người thứ ba mươi chín…. Cô bé, lúc bấy giờ đã  ngồi sát bên tôi, nơi tận cùng hõm đất an toàn. Cô kể về những người đã chết - hình ảnh cái chết dưới đáy giếng hoang dường như mách bảo cô, về cái chết của bố mẹ cô mà thực ra lúc đó cô còn quá nhỏ, cô không hay biết một tý gì. Cô khóc tấm tức. Tôi phải giấu tiếng khóc của tôi, khe khẽ nói: “Em bé ơi, nhưng mà cuối cùng có một người đã sống lại được, nhờ em. Thôi, em đừng khóc nữa!” Cô bé có vẻ dịu đi được đôi chút nhưng chỉ giây lát sau, cô bỗng quay sang tôi, giọng đột ngột trở nên gay gắt: “Anh bảo em đừng khóc, sao anh khóc? Nào, anh hãy trả lời em đi?” Giọt nước mắt có bao nhiêu nghĩa. Nếu cậu ở vào địa vị mình lúc đó, cậu sẽ trả lời cô bé ra sao? Cậu hãy nói trước đi! Nói đi! Nào…

Vĩnh hỏi và thúc giục nhưng không có vẻ gì chờ đợi nghe tôi trả lời. Ông sống trọn mình trong hồi tưởng và đã đến lúc ông không thể gắng gượng được nữa. Bàn tay ông run rẩy đưa lên, nắm chặt lấy ngực áo, đôi mắt đờ ra. Tôi vội dìu ông đứng dậy, đưa ông về giường nằm.

***

Những ngày tiếp theo, Vĩnh bị đau luôn. Bác sĩ phụ trách khu an dưỡng phải cử người về tận bệnh viện chuyên khoa ở Hà Nội, đem thuốc lên, vừa tiêm cho Vĩnh vừa bắt ông uống đủ loại thuốc bột, thuốc viên, đều đặn hàng giờ. Vĩnh không muốn phiền các thầy thuốc, ông thường tuyên bố rằng, cứ sau mỗi lần tiêm hoặc uống thuốc, ông đều thấy dễ chịu hơn chút ít. Chỉ có tôi là người chứng kiến đến tận cùng nỗi đau đớn âm thầm, dai dẳng của ông. Ông thường nhờ tôi xuống nhà bếp lấy nước sôi, thay nước trong túi chườm và ông nằm co quắp, luồn cái túi chườm vào tận bên trong ngực áo, khiến da ngực ông phồng rộp cả lên. Nhưng ông vẫn cố tỏ ra bình thản. Chỉ cần cơn đau dịu đi một chút là ông lại bảo tôi: “Mình sắp ngủ được rồi. Cứ để yên cho mình ngủ. Còn cậu, cậu hãy đi ra ngoài, tập luyện đôi chân của cậu đi!” Con người Vĩnh thật lạ, ở ông luôn luôn toát ra một uy thế tinh thần thế nào đó, buộc tôi không thể cưỡng lại ông.

Tôi đi ra ngoài nhưng chỉ quanh quẩn qua lại từ khu vườn hoa nhỏ truớc sân tới cổng trại. Bầu trời xanh trong, con đường đồi, những sườn cỏ pha nắng chiều dìu dịu… tất cả vẫn hấp dẫn tôi như ngày nào mới tới nhưng cũng vì thế, tâm trí tôi càng không sao dứt ra khỏi những cơn đau của Vĩnh. Tôi đâm ra ngơ ngẩn, dường như vừa tỉnh lại vừa mơ thấy những cơn đau của chính mình. Bỗng nghe một tiếng gọi nhỏ: “Chú Đàm!” Tôi giật mình quay lại thì thấy cô gái cắt cỏ tôi thường gặp dưới gốc cây long não, đã theo sát sau tôi từ lúc nào. Hôm nay cô không đi cắt cỏ. Cô mặc đẹp va trang nhã, tay xách làn, úp ngoài cái làn là chiếc nón trắng tinh. Trông cô lớn hẳn lên, tươi trẻ, duyên dáng và nét mặt cô có vẻ ngượng ngùng, bối rối thật lạ lùng. Cô vừa vuốt tóc vừa líu ríu nói:

- Cháu vừa vào đến cổng thì trông thấy chú. May quá… chú có thể ngồi đây với cháu một lát được không?

Chúng tôi ngồi trên chiếc ghế dài, ken bằng thân gỗ đơn sơ, chân ghế chôn trong đất, dưới bóng mát hàng cây xế bên cổng trại. Cô gái đặt cái làn nơi đầu ghế, úp cái nón lên trên, đầu cô nghiêng nghiêng, chăm chú nhìn tôi:

- Chú khỏe không? Bên chân đau của chú thế nào?

Tôi dùng đầu gậy cời lên một viên đá rồi co chân, hất nó ra xa. Cô gái cười vui:

- Cháu mừng chú. Nhưng cháu vẫn không sao quen được chuyện cái nẹp với những đinh ốc bằng kim loại nằm trong xương thịt con người - cô chớp mắt rồi bỗng nói - chú nhận được những trái cam cháu gửi cho chú rồi chứ?

Tôi không biết trái cam nào nhưng vẫn cứ gật đầu:

- Cảm ơn. Tôi đã nhận được đủ cả.

- Hôm ấy cháu bận, con em gái cháu nó đem cam lên đây thay cháu. Về nhà, nó kể lại rằng, nó hỏi thăm cô y tá trực, vào được đúng phòng chú. Nhưng trong phòng có hai chú, mà cả hai chú đều ngủ. Một chú quay mặt vào trong tường. Còn chú nằm giường bên quay mặt trở ra. Chẳng biết chú nào là chú Đàm, nó đánh liều đến gần chú nằm quay mặt trở ra. Nó thấy chú ấy gầy khô, nét mặt nhăn nhó, thở nặng nhọc. Nó định gọi, nhưng lại sợ. Thế rồi chú ấy bỗng mở mắt ra, bàn tay quờ quạng về phía trước, miệng mấp máy như định nói câu gì. Nó cúi xuống, nghe nhưng không thể nghe rõ câu gì. Hoá ra là chú ấy mê. Nó bối rối quá, vội để những trái cam nó mang theo lên mặt chiếc bàn con kê sát chỗ nó đứng rồi rón rén đi ra… Cháu nghe con em gái cháu kể lại như thế, cháu băn khoăn quá. Nhỡ như nó lầm…

- Thì tôi chả vừa nói tôi đã nhận được đủ cả rồi là gì! - Tôi ngắt lời cô gái.

- Vâng! - Cô gái cúi đầu, vẻ ngoan ngoãn - Nhưng như thế cháu lại càng băn khoăn hơn. Băn khoăn cho sức khoẻ của chú. Chú ngủ trong đau đớn và mê sảng… Bây giờ thì cháu mừng quá! Con người ta sống thật không dễ mà chết cũng không dễ một chút nào, có phải thế không chú?

Tôi im lặng; thốt nhiên, cái cái hình ảnh tương phản của đôi bàn tay thon nhỏ, mềm mại và đôi bàn chân to bè, đầy vết nứt nẻ của cô gái lại ập vào mắt tôi. Nhưng cô không để ý đến điều đó, vẫn chậm rãi nói:

- Cháu nghĩ như vậy vì mẹ cháu… Chú thử tưởng tượng đời một người đàn bà goá bụa, bìu ríu hai con nhỏ, ở một nơi hoàn toàn xa lạ… Mẹ cháu không có đủ sức lực và quyết tâm như bố cháu, đào hàng trăm cái giếng - hàng trăm cái và bỏ đi phần lớn, rút cục chỉ nhằm cắm cho bằng được cái xóm nhỏ hơn hai chục nóc nhà, cho nó toả rễ ra một mảng sườn đồi. Nước có rồi. Nhưng cái ăn vẫn thiếu, tre pheo với bóng cây vườn lại càng thiếu hơn.  Lúc bấy giờ cháu mới lên mười, tuy chưa hiểu gì nhưng đã biết thương mẹ cháu lắm. Đêm nằm rúc đầu vào nách mẹ, cháu tỉ tê: “Mẹ ơi, hay mẹ con ta vê xuôi, ở dưới đó còn có bà ngoại với các dì…” Mẹ cháu nuốt nước mắt: “Về làm sao được hở con! Ít nhất thì mẹ con mình cũng phải chờ ba năm nữa, mẹ lo xong việc thay áo cho bố con…” Rồi thế nào, chú biết không? Những năm sau đó, ba mẹ con cháu vừa làm lụng tất bật, hết việc hợp tác đến việc nhà để cho có cái ăn, lại vừa hì hục xe đất màu từ dưới khe đồi lên, tôn mảnh vườn bên cạnh nhà. Cứ mỗi chiều một xe đất, đều đặn như thế, trừ những ngày mưa gió hoặc quá bận. Hai chị em cháu không đáng nói làm gì, chỉ lẵng nhẵng bám theo xe cho mẹ cháu khỏi lẻ loi. Chính mẹ cháu đã đào, xúc, cầm càng xe và gò lưng kéo, không phải hàng trăm, mà hàng ngàn xe đất… Bao nhiêu sợi chão quàng qua vai mẹ, để kéo xe, đã phải thay đi vì chúng ngấm mồ hôi, ải mục dần và đứt. Đến bây giở, vô số sợi chão đứt vẫn còn vắt lòng thòng trên gióng chuồng bò nhà cháu. Đôi khi con bò háo muối, nó lại rứt từng mẩu chão, nhai sào sạo. Thế là mẹ cháu lại la lên: “A, con quái! con quái!” vừa la vừa kéo vạt áo lên chấm mắt. Thấm thoắt,  vậy mà mẹ cháu đã già rồi, mắt kém rồi.

Những ngày trước đây, ngồi dưới gốc cây long não trên mỏm đồi cao, tôi đã nhìn thấy cái xóm nhỏ của cô gái, phía xa xa. Bây giờ thì tôi nhìn thấy cả ngôi nhà nhỏ của cô, mảnh vườn và vuông sân đầy sỏi vụn. Tôi liền phác ra cái cảnh tượng quây quần đầm ấm giữa ba mẹ con cô, với những nụ cười, tiếng bò nhai cỏ, tiếng lợn kêu và đàn gà tranh ăn tíu tít…

- Rồi sao nữa? - Cô gái nheo nheo đuôi mắt, hơi hếch cái cằm thon nhỏ, vẻ như khiêu khích trí tưởng tượng của tôi.

- Rồi cô sẽ đi lấy chồng. Một anh chồng thật tốt nết, nhà ở ngay trong xóm, hoặc nhà anh ta xa thì anh ta sẽ đến ở rể. Còn cô chắc chắn là rất mắn con. Chẳng bao lâu, bà cụ sẽ có một đoàn cháu ngọai…

Cô gái bỗng phá lên cười  ngặt nghẽo. Tiếng cười làm tôi ngơ ngác.

- Cháu buồn cười quá! Là vì, mẹ cháu cũng thường hay vẽ ra cái cảnh mai sau vui vẻ, y như chú ấy. Nhưng chú biết thế nào không? Một hôm, có một chiếc ô-tô chở gỗ của lâm trường, ở tít trong chân núi ra, ô tô đỗ lại ngoài đầu xóm, nhóm công nhân đi áp tải gỗ tìm vào nhà cháu, xin thổi cơm nhờ. Bọn họ cứ như giặc ấy, làm náo loạn cả lên. Một anh chàng trong bọn bảo cháu; “Này cô bé, vào trong chân núi trồng rừng với bọn anh đi. Bọn anh là một lũ chuyên phá rừng đang cần có người trồng rừng mà tìm mãi chưa ra!” Cháu ức quá, liền nói: “Cái mặt anh còn non choẹt, sao dám gọi tôi là cô bé? Mà anh với tôi có quen biết gì nhau!”. Anh chàng đáp lửng lơ: “Thì thôi, tôi sẽ gọi cô là cô bạn vậy… Này cô bạn, cô có bao giờ để ý đến đàn kiến không? Kiến ở khắp nơi và cứ đi lại tất bật khắp nơi. Con người ta cũng như kiến ấy, người ở khắp nơi và cũng cứ đi lại tất bật khắp nơi, trên mặt đất này. Con người gặp nhau tuy không cụng đầu như kiến nhưng lại biết nhìn nhau. Chẳng hạn như tôi đang nhìn cô bạn, cô bạn thấy thế nào?” Anh chàng tán cứ như gió ấy… Nhưng thôi, cháu có chút việc bận, cháu phải đi ngay bây giờ…”.

Cô gái đột ngột nhấc cái làn cô vẫn giấu dưới chiếc nón úp nghiêng, lấy từ trong làn ra một cái túi ni-lông mỏng, trong đựng những trái cam. Cô dúi cái túi vào tay tôi. Tôi định nói một câu gì nhưng cô gái lập tức buộc tôi phải câm lặng, bằng cách nói thác ra rằng cô đã cầm tiền tôi gửi để mua cam, số tiền ấy cô mua chưa hết, vậy thì tôi bắt buộc phải nhận những trái cam cô đem đến cho tôi. Rồi cô đứng ngay dậy, chào tôi, đi rất nhanh theo con đường dốc lượn xuống chân đồi.

***

Trở về phòng, tôi đặt ngay túi cam lên mặt chiếc bàn con, bên phía giường Vĩnh; Việc làm đó nảy ra tự nhiên, ngoài ý thức của tôi, dường như nó nhất thiết phải là như vậy. Không ngờ lúc đó Vĩnh nằm nhắm mắt nhưng vẫn tỉnh. Ông ngồi bật ngay dậy, khẽ hất hàm về phía tôi, giọng gay gắt:

- Cậu vừa làm cái trò gì thế, Đàm?

Tôi định thanh minh nhưng Vĩnh xua tay, giọng càng gay gắt hơn:

- Hoá ra lần trước cũng chính là cậu, hả? Cậu thông minh và đã thành công đấy. Nhưng lần này cậu lặp lại là cậu ngu ngốc. Ngu ngốc, cậu hiểu chứ.

Cơn nóng giận của Vĩnh thật bất thường, vô lý. Tuy nhiên, đã quá quen với sự trở chứng của một người bệnh như Vĩnh, tôi đành nín nhịn và nhận tất cả lầm lỗi về mình. Tôi thổ lộ với ông rằng, mấy trái cam chẳng đáng kể gì, cái chính là tôi muốn chia sẻ cùng ông niềm vui của tôi khi tôi nhận được chúng, từ tay cô gái không quen biết. Tôi vừa trò chuyện với cô và lần này, tiếp nối với những lần trước, cô đã lôi cuốn tôi vào giữa dòng đời tuôn chảy. Tôi đã hồi sinh và cảm thấy từ trong máu thịt tôi, rẳng cái dòng chảy ấy là vô cùng, đầy ghềnh thác, nhan nhản ngẫu nhiên, những khúc êm đềm thật hiếm hoi và ngắn ngủi, đến mức ta chưa kịp thở cho khoan khoái thì những ghềnh thác mới đã lại hiện ra rồi. Cái giây phút cô gái vụt đứng lên, chào tôi rồi hấp tấp quay đi - tôi không rõ cô đi đâu, có việc gì, chỉ có thể đoán là việc ấy rất hệ trọng đối với cô - cái giây phút ấy khiến tôi bị ám ảnh. Nghe tôi nói, nét mặt Vĩnh dịu dần, ông mỉm cười độ lượng, hướng về phía tôi:

- Cậu thử nói rõ hơn, cậu bị ám ảnh về nỗi gì nào?

- Về sự biến đổi - tôi ngập ngừng - về những điều mình biết và chưa biết…

- Biết và chưa biết. Thì hiển nhiên phải vậy, nó mới là cuộc đời chứ! - Vĩnh khẽ đặt bàn tay lên ngực áo, xoa nhè nhẹ - Như mình đây, mình đã chai lì đi trước những cơn đau quằn quại, với ý nghĩ đinh ninh rằng nó không thể dứt, vậy mà nó vừa đột nhiên chấm dứt… Chà, mình thấy trong người cứ nhẹ lâng lâng. Để mình kể nốt cậu nghe chuyện ba mươi sáu năm về trước của mình. Mình cần phải kể, để xua tan cái cảm giác bị bứt ra, tan loãng đi khỏi mặt đất này… Cái đêm thoát tù ba mươi sáu năm về trước ấy, nói tóm tắt, mình đã cùng cô bé vượt qua vành đai trắng, tìm về được nhà bà mẹ cơ sở cũ của mình. Bà mẹ chỉ có một con trai, đã bị giặc giết, đem bêu đầu ngoài chợ. Vì thương con, bà khóc loà cả hia mắt. Nghe tiếng tôi nói, bà nhận ra ngay. Còn cô bé, bà phải sờ đầu tóc, mặt mũi, nắn vuốt hai cánh tay, cho đến từng ngón tay - sau nhiều lần như thế, bà mới nói thong thả và rành rọt: “U tin con. Nếu con không chê u nghèo, con ở lại, u sẽ nuôi con, gây dựng cho con!”. Tôi nán ở lại nhà bà mẹ ít hôm, tưởng như thế là đã thu xếp được cho cô bé ổn thoả. Không ngờ, buổi tối sắp lên đường tìm về đơn vị cũ, cô bé cứ níu chặt lấy tôi, khóc nức nở, đòi theo tôi. Cô nói với tôi rằng, cô có thể làm cấp dưỡng, liên lạc hoặc bất cứ việc gì. Tôi càng an ủi, dỗ dành, cô càng khóc, cuối cùng tôi phải hứa với cô, sau khi tìm thấy đơn vị, tôi sẽ trở lại đón cô. Cô bé nín khóc, nhìn tôi đăm đăm, vừa như van xin vừa quả quyết; “Không chỉ hứa mà phải thề với em đi!”. Tôi mấp máy môi nhưng cô bé vội xua tay, nét mặt cô già hẳn đi, đanh sắt lại: “Anh hãy cắn vào đầu ngón tay trỏ của anh, cho tớ máu. Rồi anh nuốt những giọt máu của anh vào bụng anh đi. Nào… anh có dám thề với em theo cách như thế không nào?”. Tôi vâng theo cô bé trong nỗi kinh hoàng, không phải vì tôi sợ đau đớn mà là vì cái ma lực mạnh mẽ đến dữ dằn ẩn trong giọng nói trẻ thơ, êm dịu của cô. Về sau này tôi mới dần dần hiểu ra rằng, cô bé khăng khăng níu giữ tôi, quyết không để mất tôi vì tôi, lúc đó, là biểu tượng của cả cuộc đời này, cuộc-đời-nói-chung, mà cô bé vừa tìm lại được… Đơn vị tôi đã chuyển địa bàn hoạt động, rồi những trận giặc càn, những chuyến đi trinh sát mới và những trận đánh mới… Mãi một năm sau tôi mới tìm về chốn cũ, gặp lại được cô bé của tôi. Cô không còn là cô bé con gầy gò, đen đủi, rách tả tơi mà đã thành một cô gái tuy không xinh đẹp nhưng mặn mà, tươi tắn. Cô nói với tôi, ngay sau phút đầu gặp gớ:  “U chết rồi!”. Tôi thắp ba nén nhang, cúi đầu trước bàn thờ bà mẹ. Rồi tôi rụt rè tin để cô biết, chuyến này cô có thể theo tôi về đơn vị, làm cứu thương hoặc sang công tác bên huyện hội phụ nữ - đoàn thể nhận đỡ đầu đơn vị tôi. Cô gái ngồi im lặng, xoắn vặn hai bàn tay rồi bỗng ngẩng lên, thảng thốt nói: “U chết rồi… Anh thử tưởng tượng, một năm trời em sống với u, thoạt đầu u phải sờ tận mặt em mới nhận ra được. Sau u chỉ cần nghe giọng nói. Sau cùng, em nín thở, rón rén đến bên u, u chỉ cần thoáng ngửi thấy mùi tóc em là u biết… Căn nhà xiêu vẹo này có bàn thờ u, hơn nữa, còn có những hầm bí mật do chính tay em đào và chỉ mình em biết. Anh có biết vì sao em dám đào hầm bí mật không? Vì những giọt máu ứa ra nơi đầu ngón tay trỏ của anh đấy…”. Thế là chúng tôi chia tay nhau. Cô gái ở lại. Và tôi đi. Tôi đi suốt thời trai trẻ, cho đến tận bây giờ… Trong trí nhớ của tôi, hình ảnh cô gái vừa cố định lại vừa chuyển dịch theo dòng thời gian. Tôi thường tưởng tượng cái giây phút mình hiện sống, thì ở nơi cô, cô đang sống thế nào? Chẳng hạn, lúc này đây, giá mình gặp lại cô ta, chắc cô ta đã thành bà mẹ và rất có thể một đứa con bà cũng sẽ đem cho mình những trái cam, như những trái cam này chăng?

Vĩnh nhấc túi cam lên, nhìn ngắm rồi chậm chạp nhấc ra từng quả, bày chúng lên mặt bàn. Khuôn mặt ông đờ đẫn, vẻ như ông đã quên cơn nóng giận về việc tôi đã đặt túi cam “của tôi” lên bàn ông và ông đang chìm đắm vào một giấc mơ nào đó. Nhưng cũng không hoàn toàn như thế. Vĩnh chợt ngẩng lên, dôi mắt ông sáng lấp lánh, ông cầm một trái cam, đặt vào lòng bàn tay tôi, nói như ra lệnh:

- Trái gì đang trong tay cậu, cậu biết không? Trái hạnh phúc đấy. Hạnh phúc bình dị, vừa nuôi dưỡng tinh thần ta, lại vừa ăn được. Nhưng chớ vội ăn ngay. Trước khi ăn, hãy tự hỏi mình, thứ trái cây này sao nhỏ và hiếm hoi đến thế, hỏi mà không hờ hững, vô tình thì hãy ăn!

Giọng Vĩnh bỗng lạc đi, nghe khác lạ. Tôi cúi xuống tay mình. Đến khi ngẩng lên thì Vĩnh đã ngã xuống giường, môi mím chặt, đôi mắt nhìn mơ hồ tận đâu đâu…

***

Ngày tôi phải xa Vĩnh không ngờ đến quá nhanh. Thứ hai đầu tuần, trại an dưỡng gửi tôi về bệnh viện tỉnh để chiếu X. quang và kiểm tra sức khoẻ. Đường sá không lấy gì làm xa nhưng cầu phà trắc trở, mãi sáng hôm sau tôi mới trở về được. Xe chở tôi vừa đỗ lại trước sân trại thì cô y tá từ phòng trực hấp tấp chạy ra, vẫy gọi tôi. Cô tin để tôi biết rằng, đêm qua Vĩnh đột ngột bị lên cơn đau quá nặng, trại phải đi mượn xe bộ đội, cấp tốc đưa Vĩnh về Hà Nội, gửi ông vào bệnh viện chuyên khoa vốn vẫn điều trị cho ông từ mấy năm nay. Cô đưa cho tôi một tờ giấy gấp tư vuông vắn. Tôi giở ra, thấy chữ của Vĩnh viết rất to, nắn nót, ngòi bút như xiết lên mặt giấy: “Mình đi. Đàm ở lại mạnh khoẻ. Đừng quên mình!”. Trời ơi, làm sao tôi có thể quên Vĩnh được. Tôi cảm thấy ngột ngạt, liền quay ra cổng trại, nặng nhọc leo lên mỏm đồi có cây long não. Trước mặt tôi, phong cảnh một vùng đồi quen thuộc dường như mờ đi, chỉ còn nổi rõ con đường dốc lượn dưới chân đồi. Tôi như nhìn thấy chập chờn đâu đó, hình bóng chiếc xe bộ đội sơn mầu xanh rêu, mui bạt đã cũ, lao nhanh giữa đám bụi cuốn mù. Thế là Vĩnh đã ra đi, im lặng và nhẹ nhàng như ngọn gió… Chợt nghe một tiếng gọi thoảng bên tai tôi:

- Chú Đàm!

Tôi giật mình quay lại, thấy một cô bé tóc ngắn cũn cỡn, khuôn mặt bầu bĩnh, mắt rất to, tay cô bé cầm cái liềm hơi vung vẩy…

- Sao cháu biết tên chú?

Cô bé cười, để lộ một chiếc răng cửa mọc nghiêng:

- Lúc nãy, cháu nghe cô y tá gọi tên chú. Cháu cắt cỏ bên hàng rào mà. Gánh cỏ của cháu kia… Giá không có cô y tá thì cháu chẳng nhận ra chú đâu. Hôm chị cháu sai cháu đem cam lên cho chú, chú ngủ, cháu thấy chú già, gầy khô, râu ria mọc khiếp lên kia!

- Dạo ấy ấy chú đang đau. Còn bây giờ chú hết đau rồi. Chú lại được gặp cháu nữa, vui quá!

Cô bé đứng im, để tôi nhặt những vụn cỏ vương trên mái tóc và vai áo cô.

- Chú biết không, chị cháu lấy chồng rồi! - Cô bé bỗng nói - Hôm chị cháu mang cam lên cho chú là hôm chị cháu lên phố huyện may áo cưới đấy… Chị cháu mặc bộ đồ cô dâu đẹp lắm, nhưng mà chị cháu ngượng, mặt cứ đỏ tưng bừng lên. Thế rồi đến lúc họ nhà giai xin đón dâu về, chị cháu đến bên mẹ cháu, nói lí nhí: “Con xin phép mẹ, con đi…” mắt chị cháu đỏ hoe, nước mắt vòng quanh, trông thật buồn cười. Chị cháu lấy anh cháu là do hai người yêu nhau đấy chứ. Anh cháu ở lâm trường, tít trong chân núi. Chắc chị cháu sợ lúc mới về trong ấy, lạ, chú nhỉ?

Tôi mỉm cười:

- Cái đó thì chú chịu, chú không biết. Bao giờ cháu lớn như chị cháu…

Cô bé rụt cổ, lưỡi hơi thè ra:

- Eo ôi, cháu còn bé thế này, biết đến bao giờ cháu lớn bằng chị cháu mà chú đã vội nói! A, mà cháu quên, chị cháu có dặn cháu, nếu cháu lên đây cắt cỏ, tìm gặp được chú, thế nào cũng mời chú, dẫn chú về chơi nhà cháu một buổi. Chú về được không?

Tôi nắm chặt bàn tay nhỏ nhắn nhưng cứng cáp của cô bé. Lòng tôi đinh ninh, thế nào tôi cũng đi theo bước chân nhảy nhót của cô.

1983

 

TRUYỀN THUYẾT VỀ NHỮNG EM BÉ

Người ta đưa tới trạm quân y của chúng tôi một em bé bị bom na-pan. Em đang đi trâu trên đồi tranh - con trâu miền núi, cổ đeo chiếc mõ tre khua đủng đỉnh - Khi lửa bắt vào người em, em băng theo sườn đồi, nhảy ào xuống suối. Giá em lăn trên đất, trên cát thì hay hơn. Nhưng em còn nhỏ dại quá. Tôi đã nhiều lần đi công tác đến các đơn vị bộ đội, các đội thanh niên xung phong, các làng xóm trong vùng. Đâu đâu tôi cũng gặp những rừng cây trơ trụi, những luỹ tre vấy bùn tận ngọn, những lò gạch hoặc lò vôi đứng sững, làm chứng rằng ở đây trước đã từng có một công trường nho nhỏ, một thị trấn tre nứa, một bến đò… Bọn Mỹ đang tiến hành ở đây một cuộc chiến tranh huỷ diệt, theo đúng nghĩa đen của từ đó. Tuy nhiên, người của chúng ta lại dồn tới đây đông hơn trước gấp bội. Trạm chúng tôi luôn phải di chuyển theo những tuyến đường ngày đêm bị bom phá nát nhừ, nhưng sức mạnh lớn của hậu phương vẫn ngày đêm tràn tới, như thác cuốn ầm ầm ra tiền tuyến. Chúng tôi ở hang núi. Những hang núi rủ đầy thạch nhũ, chỉ qua vài đêm là khói đèn dầu ám đen cả mùng màn và những chiếc áo trắng tinh. Chúng tôi ở hầm. Những căn hầm mùa đông sương mù lọt vào và mùa hè thì khốn đốn vì mưa gió và bùn lầy. Nhưng tất cả những thứ đó đều không thấm tháp vào đâu khi chúng tô đứng trước các chiến sĩ bị thương.. Và đứng trước em bé. Em bé trai, đang tuổi mê nghịch đất, nặn pháo đền, buổi học nào cũng ngồi nhai quản bút tím kẽ răng. Em bị bỏng toàn thân. Lại có triệu chứng nhiễm phải hơi độc. Chỉ còn khuôn mặt em lành lặn. Chúng tôi quyết định những biện pháp khẩn cấp và dành mọi ưu tiên để chữa chạy cho em. Nữ đồng chí thiếu uý bác sĩ, cô gái duy nhất và trẻ nhất trong trạm chúng tôi luôn luôn ở bên em. Cô vừa ra trường, theo một trương trình học đột ngột rút ngắn lại. Đầu óc cô còn đầy ứ lên kỷ niệm về các giáo sư nổi tiếng trong khoa học, các bạn bè với đủ thứ năng khiếu đầy hứa hẹn, những đường phố, vườn hoa, rạp chiếu bóng và những buổi lao động đẫm mồ hôi, cũng đậm cả tiếng cười. Tôi vừa phát ghen với tuổi trẻ của cô, vừa có phần nghi ngại khi cô nói rằng trạm quân y này mới là trường đại học thực sự “đại học của cuộc sống”, tuồng như cô biết tôi là thủ trưởng chính trị của trạm nên nói ra như vậy. Nhưung dù thế nào tôi cũng luôn luôn ở bên cô, trước giường những người bệnh, nhất là trong những trường hợp khó khăn. Em bé bị mê man đã gần trọn một ngày. Vừa tỉnh dậy, trông thấy chúng tôi, em hỏi ngay:

- Bác ơi, cháu có sống được không?

Cô bác sĩ nhìn tôi. Tôi hiểu rằng chính tôi phải trả lời. Tôi cúi xuống, đặt tay lên trán em bé và nói:

- Cháu đỡ nhiều rồi. Cháu cố ăn một tý gì nhá. Rồi ngủ đi.

Em bé rất khó qua khỏi. Đôi môi non nớt của em há ra ”nghe” tôi nói và đôi mắt thơ ngây của em bùng cháy một ngọn lửa mãnh liệt.

Tôi đã ngoài bốn mươi tuổi, bước vào đời giữa nạn đói khủng khiếp năm 1945 và đã trải qua suốt cuộc kháng chiến chống Pháp. Tôi cũng kể là đã nhiều nơi, làm qua nhiều công tác, gặp gỡ nhiều người. Không có gì cảm động bằng gặp những em bé trong những trường hợp tương tự. Trong trí nhớ của tôi, những cuộc gặp gỡ ấy dường như không có thực, hay nói cho đúng hơn, có vẻ không hoàn toàn thực tế. Vậy mà tôi vẫn không sao dứt ra được…

Năm tôi mười chín tuổi, nhờ một người anh họ dìu dắt, tôi đã tham gia những hoạt động bí mật tiền khởi nghĩa. Một buổi chiều tôi phải sang làng bên họp tiểu tổ công tác. Dọc đường quan, người kéo đi lũ lượt. Không phải người mà là những đùm tã rách, những bộ xương xiêu vẹo, những cái bóng chập choạng mù mờ. Đến ngã ba, tôi gặp một em bé trai. Em ngồi tựa lưng vào một mô đất cao. Tục truyền đó là mộ “thằng ăn mày”, thương lắm, người qua đưòng rắc vàng thoi và bồi đất dần lên thành đống. Mặt em bé vàng bủng, ánh chiều hắt lên còn vàng bủng hơn. Chỉ có vầng trán rộng và dô cao khác thường, điểm một vết sẹo nhỏ gần thái dương là chứng tỏ trước đây em vốn tinh nhanh và nghịch ngợm. Tôi dừng lại hỏi bố mẹ em đâu, những người thân thích của em đâu? Em còn thơ dại quá. Em không biết gì hết. Chỉ biết độc một điều: Đói! Có thể, gia đình em đã chết rụng dọc đường. Cũng có thể, họ đã bỏ em lại, vừa để cầu may cho riêng em, vừa khỏi phải nhìn cái cảnh em lìa lắt. Hồi đó, chẳng thiếu gì những chuyện như thế…

- Ông đi đi! Đi đi! Đột nhiên em nói, giọng thều thào nhưng gay gắt.

Em đuổi tôi? Sao em lại đuổi tôi? Chắc em nghĩ, sau khi dừng lại trước mặt em, rồi tôi cũng sẽ lại kéo đi, như bao nhiêu người khác đã dừng lại và đã kéo đi.

Tổ công tác giao cho tôi nhiệm vụ phải lợi dụng phiên chợ huyện để điều tra kho thóc đặt ở đầu thị trấn. Tôi đi vơ vẩn khắp chợ. Phiên chợ đói tháng ba năm Ất Dậu.  Cái đói trong nhà còn che đậy. Cái đói đường tản mạn lang thang. Cái đói chợ thì thì vừa tụ họp vừa phơi bày ra tất cả vẻ lạnh lẽo thê lương. Chợt nghe một tiếng “ôi làng!” lập tức tôi như giọt nước bị hút chặt xuống một cái xoáy dữ dội. Người ta đuổi theo một em bé gái vừa cướp giật của ai đó cái gì ăn được. Đến cửa kho thóc, họ bắt được em. Lẽ ra em nhả cái ăn được ra thì cũng chỉ đến bị xỉ vả là cùng. Nhưng em bắt chéo hai cánh tay, ôm chặt lấy bọc áo và cứ lăn tròn trên mặt đường lầm bụi, mặc cho người ta đánh đạp và giày xéo. Bộ tóc của em rất dày, đen và cứng phủ kín mặt, thỉnh thoảng lại loánh lên đôi mắt vằn đỏ. Tôi xông vào. Người ta đánh phải tôi. Tôi vùng vẫy. Mỗi lần đụng chạm chỉ thấy xương va vào nhau qua lớp da quá mỏng,. Không đủ đệm cho bớt phần nhức nhối. Tôi la lên:

- Sao đánh nhau thế này?

Một người nào đó giận dữ nói:

- Đói chứ còn sao!

Em bé được tôi che chở đứng dậy được. Và em nói:

- Tôi cũng đói!

Sau câu nói của em, tất cả bỗng lặng phắc. Những đôi mắt vừa mới đây thôi còn lé lên những tia dữ tợn, như muốn cấu xé nhau bỗng tối sầm cả lại. Em bé thừa cơ, lách ra khỏi đám đông và cắm đầu chạy. Không hiểu sao em có thể chạy nhanh đến thế. Như một mũi tên lao vút và biến mất. Tôi cũng muốn nhân cơ hội nói với mọi người điều gì. Nhưng chưa thể nói. Vì tôi còn phải giữ bí mật hành tung để tiếp tục hoạt động công khai. Tôi lần theo dấu chân em bé, thấy những mảnh vụn vàng sẫm lốm đốm trong cát bụi. Những mảnh vụn bánh cám. Sau khi đã vòng quanh kho thóc, theo dõi các trạm gác và những phiên đổi gác của bọn lính, tôi quay trở lại. Những vụn bánh cám không còn nữa. Tuy nhiên, những vụn bánh cám vẫn cứ in lốm đốm trong trí nhớ của tôi và tôi linh cảm thấy hình như cứ lần theo dấu vết đã bị xoá sạch đó sẽ có thể tìm ra được những bí ẩn đơn giản mà sâu xa của lòng người. Và thế chăng, nên tôi đã gặp lại em, ngay sau kho thóc, khi tan chợ, chỉ còn mình tôi trên đường về? Em đi trước tôi một quãng ngắn. Đúng là em, không thể nào nhầm lẫn. Bộ tóc em rất dày, đen và cứng phủ trên vai áo rách toạc, hở gần hết lưng. Tấm lưng màu đất, vừa bị đau đòn. Tôi khẽ gọi và đuổi theo em. Em quay nhìn rồi càng đi nhanh hơn, băng qua những thửa ruộng không người cày cấy, màu bạc phếch và nóng như rang.

Đột nhiên em dừng lại. Tôi rụt rè đặt tay lên vai em xoay em quay lại. Em vẫn đứng sững, một bọc nặng trong tay em kéo em trĩu xuống. Không phải một bọc. Một em bé trai ủ trong manh tải. Chính là em bé trai tôi đã gặp ở ngã ba có đống mộ “thằng ăn mày”, em bé trai với vầng trán rộng và dô cao khác thường, điểm một vết sẹo nhỏ bên thái dương.

- Bố mẹ các em đâu? Tôi hỏi.

- Đây không phải em ruột của em! Em bé gái lắc đầu, khẽ nói. Sáng nay, em nhặt được nó ở gần chợ…

Tôi nắm chạt bàn tay em bé gái. Bàn tay em nóng bỏng từ từ xoè ra, trong lòng bàn tay còn một mẩu bánh cám.

- Đừng cho nó ăn nhiều, cho nó ăn tý một thôi! Tôi đặt tay lên trán em bé trai và nói.

Em bé gái ngẩng nhìn tôi, đô mắt nhìn quả quyết, giọng nói gọn và nhanh:

- Em biết rồi!

Vẻ như em đã là một ngưòi mẹ dày dạn, biết hy sinh cho người khác và biết chịu đựng trước bản thân mình.

Chính em là người đầu tiên nghe tôi nói về việc phá kho thóc và tin đó đã rì rầm lan đi rất nhanh khắp vùng… Tôi nhớ đến em khi người cha của em bé bị bom na-pan đến gặp chúng tôi. Ông đứng bên giường con, hơi cúi xuống, tấm lưng vẽ thành một đường cong cứng cỏi. Trán ông đẫm mồ hôi. Ông chăm chú theo dõi mọi cử động nhanh nhẹn và nhẹ nhàng của cô thiếu uý bác sĩ cùng những mũi kim tiêm, những cặp mạ kền sáng loáng và đủ thứ chai lọ trên chiếc khay phủ vải trắng cô nâng trên tay.

Chúng tôi đang chuẩn bị tiếp máu cho em. Tôi nói.

Người cha vẫn chăm chú nhìn cô bác sĩ, dường như muốn hỏi: “Máu ai vậy?” Hẳn là cô bác sĩ cảm tháy điều đó. Cô rụt rè nói:

- Ở trạm chúng tôi có mấy đồng chí xung phong cho cháu máu. Nhưng máu các anh ấy đều thuộc những nhóm khác, không tiếp sang được. Máu của tôi thuộc nhóm O…

Người cha không hiểu thế nào là máu thuộc nhóm O, ông chỉ thấy hai ánh phớt hồng trên làn da má trắng mịn và có phần xanh xao của cô bác sĩ còn quá trẻ so với khung cảnh chung. Ông định nói gì. Nhưng tiếng bom nổ làm ông im bặt.  Tiếng bom kéo một vệt dài, nghe không xa lắm, áng chừng vào khoảng có con đường ta vừa mở. Căn hầm của chúng tôi khẽ rung lên. Một cái gì xô đập trên mặt chiếc khay thuốc kêu lạch cạch. Việc tiếp máu cho em bé bắt đầu. Qua khung cửa hầm, chúng tôi thấy khoảng trời xa và xanh thẳm đang bị làn khói đen ván đỏ phủ kín dần.

- Lại vùng tôi đó! Người cha nói, cộc và gọn, nghe hơi có chút lạnh lùng. Rồi ông chậm chạp đi ra, xách từ ngoài cửa hầm vào một giỏ rau xanh, trao cho chúng tôi. A, những lá rau xanh… Những cây rau phải mọc xen kẽ đá và len lỏi giữa những vật đầy đầy gang sắt vụn. Những lá rau thủng lốm đốm, cuộng đanh lại, ăn đậm chát. Nhưng vẫn là rau xanh. Tôi đưa mắt nhìn cô bác sĩ, có ý bảo cô hãy thay mặt anh em chúng tôi nhận lấy giỏ rau xanh.

- Xin cảm ơn bác… Cô bác sĩ lúng túng nói.

Người cha vẻ không bằng lòng. Ông quay sang tôi:

- Mạ cháu cứ đòi theo tôi đi. Nhưng tôi gàn mạ cháu. Ở đây không có mạ cháu, mong các bác đừng ngại gì cả, cứ cho tôi biết tình thực…

- Cháu yếu lắm, tôi nói, nhưng ông cứ yên tâm…

Tôi muốn an ủi và nâng đỡ ông. Nhưng chính tôi lại được ông nâng đỡ. Ông tỏ ra rất tỉnh táo và hoàn toàn hiểu rõ tôi muốn nói gì.  Tôi tiễn ông một quãng xe. Ra tới chân đồi, dừng lại, tôi còn nhìn theo ông mãi. Bóng ông khuất sau rặng cây thưa. Lúc sau, lại hiện ra trên lối mòn ngoằn ngoèo và mảnh như sợi chỉ. Bóng chiều đang đổ nhanh từ trên sườn núi chênh chênh màu tím biếc và toả lan trên những ngọn đồi trập trùng. Khi không có bóng người, vẻ bát ngát chiều hôm dường như đượm màu bí ẩn. Khi có bóng người, dù chỉ là bóng một người, như một chấm nhỏ sinh động, quang cảnh trở nên hùng vĩ khác thường. Tôi yêu thiên nhiên. Một thiên nhiên như thế bao giờ cũng gieo vào lòng tôi những cảm giác mới mẻ, đầy phấn khích. Cái đó bắt đầu sống trong tôi từ sau khi tôi trốn tù ra, vào khoảng trước thu-đông năm 1950. Tôi bị bắt trong một trận càn. Bấy giờ tôi làm cán bộ huyện và đang ở tại nhà đồng chí xã đội trưởng một xã ven sông Hồng. Cánh bãi bao quanh các xóm mọc đầy lau lách. Bọn địch đã nhiều lần lùa quân tới đốt phá, nhưng đốt phá đến cuối bãi thì đầu bãi lau lách đã lại tua tủa nảy mầm đâm nhánh lên. Anh xã đội trưởng còn trẻ, mới cưới vợ. Nhà họ bị giặc đốt. Họ chỉ có độc cái nong. Đặt nong xuống đâu thì cắt lau làm mái che lên đó… ở trại giam thị xã, tôi bị liệt vào loại tù binh nguy hiểm. Tên trùm mật thám chuyên tra hỏi chúng tôi là một thằng cha còn trẻ, rất ít nói. Nó chỉ nhìn chúng tôi. Và đánh. Mỗi ngọn roi quất, mỗi mũi dùi nung đỏ dí sâu, mỗi mũi kim cắm ngập… của nó đều chứa chất tất cả lòng thù hằn lặng lẽ mà điên dại. Cho đến nay, dấu vết của những trận đòn tra vẫn còn nhức nhối khắp người tôi. Nhưng điều tôi nhớ nhất lại là một trò chơi của nó. Sau khi đã giở hết các ngón đòn, nó bảo: “Hôm nay nghỉ. Cho chúng mày đi tắm!”. Chúng tôi bị lột truồng và bị dồn ra một góc sân. Trên đầu chúng tôi, treo lủng lẳng chiếc thùng tôn được điều khiển bằng một hệ thống dây dợ ma quỷ thế nào đó. Chiếc thùng cứ đung đưa chòng ghẹo rồi đột nhiên trút ào nước xuống. Sau đó, chiếc thùng lại thủng thỉnh đung đưa, không ai có thể biết đến bao giờ thùng lại đầy nước và lại đổ. Tên mật thám đứng nhìn, mệt mỏi và thoả mãn ra mặt về cái trò chơi thú vật của mình.

Trong tù, tôi luôn nhớ cuộc sống ở khu du kích đầy gian khổ, nhưng mộc mạc, tình nghĩa và hoàn toàn tự do. Tôi nhớ vợ chồng anh xã đội trưởng, sức lực là thế, trẻ trung là thế, với cái nong trứ danh của họ đặt xuống đâu thì cắt lau làm mái che lên đó. Những ngày yên tĩnh ngắn ngủi, tôi tránh sang ngủ nhà bên. Sáng hôm sau, trở về ăn cơm cùng vợ chồng anh, vợ chồng anh thường tỏ ra bối rối. Còn tôi, tôi xiết bao cảm động khi nghĩ rằng trên đời này có thứ hạnh phúc chỉ cuộn tròn trong một chiếc nong…

Sau khi trốn tù, tôi được gia đình cơ sở giấu tạm trên vòm mái một căn gác ngay giữa phố chính của thị xã rồi mới đưa đi. Đêm ra đi, niềm vui mãnh liệt nhất của tôi là được gặp lại thiên nhiên vùng du kích hằng quen thuộc. Vùng này đã hoàn toàn đổi khác. Vì tất cả đều bị tàn phá nhiều lần. Khắp xứ đồng mênh mông, cỏ lác mọc lút đầu người, cỏ năn đâm tua tủa. Tôi len lỏi, tôi băng qua những vạt đất không còn đường, mặc cho đủ thứ lá sắc cứa trên da thịt. Và kia, một cánh dộc trũng nước ngập trắng băng. Bầu trời đêm sa xuống đó. Mặt trăng sa xuống đó. Cả tôi nữa, tôi cũng đắm mình trong đó, tay khoả rong rêu, chân đạp bùn lỏng ngầu lên… Gần sáng, tôi gặp lại đồng chí xã đội trưởng.

- Giời ơi, anh có đói không? Có rét không? Có mệt lắm không? Anh về nhà tôi đi! Vợ chồng tôi vừa nhắc đến anh… Anh xã đội trưởng mừng líu cả lưỡi. Không hiểu sao thấy tôi anh lại mừng đến thế.

Cái nong trứ danh của vợ chồng anh đã rách nát và đã chuyển ra ngoài chân tre làng. Một nửa nong nằm trong lòng chiếc hầm hàm ếch khoét ở bờ đất cao. Nửa còn lại nằm trên cát ẩm, dưới chiếc mái hắt sơ sài. Một vạt nắng sớm rọi chênh chếch lên mặt nong. Vạt nắng êm dịu mà chói loà. Tôi đứng sững mà lảo đảo như say. Tôi nghe một tiếng khóc “oa”. Tiếng khóc sâu chắc và gay gắt. Vợ anh xã đội trưởng đứng dậy:

- Đây, cháu đây! Chị nói, gọn gàng, hơi ra vẻ thủ thỉ, dường như đây là một chuyện hoàn toàn dễ hiểu, tất nhiên phải thế và ai cũng biết thế từ lâu rồi.

Trong khi vợ chồng anh xã đội trưởng vất vả tíu tít làm cho kỳ được bữa cơm ngon thết tôi, họ bắt buộc tôi phải đi nằm bằng cách trao cho tôi nhiệm vụ vỗ về cháu bé bấy giờ đã ngủ say. Tôi thu cháu bé vào lòng, nhưng chỉ dám nhìn, chứ không dám động đến. Này đây là một cháu trai. Cái đầu cháu tròn, tóc dựng đứng cả lên, y như quả gáo. Đôi môi non nớt của cháu mấp máy luôn, tuy đôi mắt cháu vẫn nhắm nghiền: cháu đang tìm bầu vú mẹ trong giấc mơ chăng? Cháu đã biết mơ hay chưa nhỉ? Đột nhiên, cháu dụi đầu vào tôi, bập môi vào cánh tay tôi. Một dòng nước dãi hoi mùi sữa mẹ thấm qua vải áo, xăm xắp ướt vết sẹo đòn tra đang đau ê ẩm của tôi…

Từ đó, tôi thường rụt rè trước giấc ngủ của các em bé.

Em bé bị bom na-pan đang ngủ. Miệng em hé mở, lộ những kẽ răng dây mực tím còn chưa phai. Chúng tôi phải vất vả lắm mới đem lại giấc ngủ cho em. Từ chập tối, máy bay địch đã giội bom liên miên dọc con đường lớn mới mở cách chỗ chúng tôi không xa. Có khi chúng thả pháo sáng. Có khi không. Chúng bay rất cao, không vòng lượn gì hết, hình như vô tình để bom rơi xuống và cút thẳng. Trong đêm tối mù mịt, không nghe tiếng máy bay, chỉ nghe tiếng bom rít đâu đó và hàng loạt tiếng nổ khắp bốn phía. Đó là lối ném bom toạ độ nhằm uy hiếp cả một vùng. Những vết bỏng na-pan khắp người em bé đã lành hơn. Nhưng tim phổi em bị chấn thương, mạch yếu và thở không đều. Cô bác sĩ đã mấy lần phải truyền hơi trong bình dưỡng khí cho em… Khoảng gần sáng, sau một loạt công việc căng thẳng và nặng nhọc, tôi không sao ngủ được. Tôi đến bên giường em bé. Dưới quầng sáng vàng quạch của ngọn đèn tù mù đặt sát vách hầm, tôi trông thấy cô bác sĩ đang thận trọng làm cử động hô hấp nhân tạo cho em. Cô cong gập người, khuôn mặt nhỏ nhắn của cô cúi sát mặt em bé, hít thở từng hơi dài. Tôi không nghe thấy tiếng thở, chỉ cảm thấy nhịp thở qua đô vai mảnh khảnh nhô lên hạ xuống nhịp nhàng…

- Đồng chí đi ngủ đi! Tôi nói.

Cô bác sĩ nhìn em bé gái ngủ, lắng nghe chăm chú sự yên tĩnh bên ngoài. Rồi cô đột ngột nói:

- Báo cáo thủ trưởng, đề nghị thủ trưởng cho phép… cháu được nói chuyện như ở trong gia đình, vì thủ trưởng cũng như là bố cháu. Cháu thương bố cháu lắm. Trong cuộc kháng chiến lần trước cháu còn nhỏ. Cháu theo mẹ cháu đi tản cư. Cháu chẳng biết gì hết ngoài mấy con đường rừng, mấy dãy phố nhỏ và cái trường học ban đêm của cháu. Cháu thương bố cháu vì xông pha khắp các chiến trường, bây giờ phải đeo đủ thứ bệnh: dạ dày, gan, thấp khớp… Nhưng cháu không thích tính khắc khổ của bố cháu. Có một lần, vui với bạn, cháu huýt sáo. Huýt sáo một tẹo, thì có sao. Vậy mà bố cháu quát cháu một trận tơi bời. Bây giờ hai bố con đã xa nhau, cháu mới hiểu… Cháu còn trẻ, cháu đã được hưởng nhiều may mắn, cháu phải làm được một cái gì…

- Đồng chí thiếu uý, đề nghị đồng chí đừng xưng hô như thế… Tôi nói, và lúc ấy tiếng nổ đột ngột, nghe rất gần bỗng làm rung chuyển cả những cột chống và bốn vách hầm.

Em bé bị bom na-pan choàng tỉnh dậy,  kêu thét lên:

- Mạ đâu?

Cô thiếu uý bác sĩ, cô gái duy nhất và trẻ nhất của trạm chúng tôi vội nhoài người ra, che cho em bé và thổi tắt ngọn đèn. Trước khi ngọn đèn tắt, tôi còn kịp trông rõ khuôn mặt xinh xắn, non nớt và hơi xanh xao của cô dưới chiếc mũ vải mềm sao nghiêm trang đến thế. Tôi trông rõ cả những hàng lông tơ phủ nhẹ trên vành môi cô mím chặt và tôi không sao quên được cái chi tiết nhỏ nhặt ấy. Tôi quay ra phía cửa hầm, vừa lúc một ánh chớp đỏ nhoáng lên ngay trên đầu. Dường như tôi không kịp nghe tiếng bom nổ. Chỉ biết rõ ràng và chắc chắn một mảng luỹ đất bao quanh nhà hầm bị phá vỡ tung và một luồng hơi nóng quạt mạnh vào người tôi. Tôi quyết định phải lập tức chuyển tất cả thương binh, phân tán anh em đến những nơi có hầm sâu và an toàn hơn. Anh em thương binh nhẹ tự dìu nhau theo giao thông hào ra chân đồi phía trước mặt. Chúng tôi chia nhau cáng và cõng các thương binh nặng đến những hầm một đào rải rác dưới chân một luỹ đất dày, xưa kia là bờ tre làng, trong đất còn nhằng nhịt những rễ tre, bom khó đánh sập được. Chúng tôi chuyển đi, trong tiếng máy bay gầm rú, tiếng bom rung chuyển và những ánh chớp nháy bầm đỏ. Một vài đám cháy nhỏ đã bốc lên nay trong làng. Bầu trời đêm thành ra nhập nhoạng, bùng nhùng, nóng chảy. Còn mặt đất thì dường như nghiêng ngửa, chung chiêng, vừa chìm sâu xuống, vừa bị ép chặt lại. Đột nhiên, một quả pháo sáng bùng cháy, toả ra một vầng xanh. Và ở ngách giao thông hào ngay phía trước mặt tôi, một em bé gái dắt một em bé trai đột ngột hiện ra. Dưới ánh pháo sáng, tôi trông tháy bầu trời quen thuộc, mặt đất quen thuộc, mặc dầu bầu trời và mặt đất không còn hoàn toàn như cũ nữa.  Tôi trông thấy hai em bé rõ ràng đến mức nhận ra cả những tàn than lấm tấm trên mái tóc rối, trên mặt và trên cổ các em.

- Các chú không được đi lối này! Em bé gái nói, giọng gay gắt vội vã.

- Sao kia? Tôi đỡ anh thương binh tôi đang dìu, tạm ngồi xuống và đến gần em.

- Chúng nó vừa thả bom vào xóm cháu. Các chú quay lại đi.

- Không… Tôi buột miệng nói.

- Không! Em nhắc lại, các chú quay lại, rồi tạt ngang ra chỗ trường học mới sơ tán của chúng cháu ấy. Chú có biết chỗ trường học không?

- Chú biết, tôi nắm chặt lấy tay em, cả cháu nữa, các cháu theo chú đi!

Em bé gái để bàn tay im lặng trong bàn tay tôi, còn em bé trai, thấp hơn em bé gái một cái đầu, thì nấp ở phía sau. Chùm pháo sáng đã tắt. Tôi không còn trông rõ mặt cá em. Nhưng tôi vẫn tưởng thấy rõ ràng hàm răng nhỏ nhắn của em bé gái ánh lên khi môi em nói, để lộ ra những vết mực tím ở kẽ răng. Mỗi sớm tinh mơ, từ trạm quân y, chúng tôi vẫn thường trông thấy cá em học sinh cắp sách đến trường….

- Bố mẹ các cháu đâu? Tôi hỏi.

- Bố chúng cháu đi dân công, mẹ chúng cháu đi cấy xung kích… Nhà chúng cháu gần nhau, đào hầm chung, chúng cháu ngủ chung!

Em bé gái nói vừa dứt, một chùm pháo sáng khác đã lại treo lơ lửng ngay trên đầu chúng tôi. Quanh chùm pháo sáng, những tia khói trắng toả như gợn mây. Máy bay chúng lượn cao lắm, không trông rõ. Nhưng rõ ràng có tiếng rít xoáy tròn và nhọn hoắt. Đó là tiếng bom rít… Em bé gái nhanh nhẹn ôm lấy vai em bé trai, nép mình vào vách rồi đột ngột giật mạnh tay em khỏi tay tôi.

- Các cháu đi đâu?

- Chúng cháu ra đồng tìm mẹ. Cháu sợ mẹ nghe tiếng bom, lại bỏ về tìm chúng cháu. Ngoài đồng chúng cháu cũng có hầm.

Thoắt cái các em đã rẽ sang một nhánh giao thông hào khác và biến mất. Tôi dìu đồng chí thương binh rẽ sang phía trường học. Chúng tôi đi nhanh, nhưng thỉnh thoảng vẫn ngoái lại. Và chúng tôi trông thấy xa xa bóng dáng của em bé gái với chiếc cặp tóc đung đưa, bắn toé lên một chùm tia sáng đến chói mắt: em bé trai quần cộc, lũn cũn chạy sát bên. Chắc là đoạn giao thông hào khác.

Đến trường học, tôi gặp cô thiếu uý bác sĩ, cô gái duy nhất và trẻ nhất của trạm chúng tôi đã ở đấy, giữa đám anh em thương binh cũng vừa được chuyển tới. Tôi bàng hoàng không hiểu sao cô lại dìu anh em thương binh tới đây. Cô tự quyết định như vậy? Hay ai đã chỉ dẫn cho cô như vậy? Hẳn là cô thấy tôi có vẻ lạ lùng lắm, nên cô lúng túng, và cô nói, trong hơi thở dồn dập:

- Báo cáo đồng chí, em bé chết rồi!

Tôi không hiểu gì cả.

 - Báo cáo… - cô nhắc lại - trong khi chuyển em đi, em lại bị ngạt…

Bây giờ thì tôi hiểu. Nhưng tôi nói:

- Không!

1967

 

Tản văn

NHỮNG HẠT CỎ

(trích)

 

Giếng xưa

Mãi về sau này tôi mới biêt chị Giếng không phải là con đẻ của già tôi. Già tôi nhặt được chị, lúc ấy còn đỏ hỏn, bọc trong manh áo rách, vứt giữa bụi cây ngã ba đồng. Đúng năm làng đào được cái giếng, già tôi đặt tên cho chị là Giếng. Già tôi lấy chồng làng bên, goá chồng sớm, không sinh nở bận nào, lại nhất định ở vậy, coi con nuôi như ruột thịt. Già tôi không bao giờ nhắc đến, cũng không cho ai nhắc đến cái gốc gác lạ lùng, như có trời dun dủi để hòn máu rơi từ đâu không rõ, lại rơi vào tay già! Tôi nhỏ hơn chị Giếng cả chục tuổi. Chị em tôi quấn quít bên nhau suốt ngày. Tôi thường xách cái gầu mo cau, theo chị Giếng ra cái giếng đầu làng gánh nước. Cái giếng tròn, sâu hút, thành thiếng xây cao bằng thứ gạch cổ ngả mầu gan gà. Trong lúc chị Giếng đứng khom mình, thả dây gầu xuống lồng giếng thì tôi cố đu người, thò đầu trên gờ thành giếng, mắt thao láo nhìn cái hình bóng của chị Giếng rung rinh trong sóng nước ở dưới sâu. Tôi ngẩn ngơ nói: "Chị Giếng ơi, chị đẹp tuyệt trần!” Chị kéo tôi xuống, vả nhẹ vào má tôi, khẽ gắt: “Thôi, đừng có huyên thuyên, đi về!”.

Trong làng có hai anh con trai vẫn rình lúc chị Giếng đi gánh nước để gặp chị. Cả hai đều khoẻ mạnh, đẹp đẽ. Chỉ có điều khác nhau là, anh xóm dưới rụt rè nói: “Giếng ơi…” còn anh xóm trên thì cứ xấn xổ: “Này, mình ơi…”.

Đêm mùa đông, tôi được ngủ ổ rơm với Giếng. Tôi thủ thỉ:

- Em biết có hai người phải lòng chị. Chị ưng ai?

Chị Giếng vờ ngủ say, không nghe thấy tôi nói. Tôi lay chị, giật giật đuôi tóc chị:

- Chị đừng có tảng lờ với em. Chị ưng ai?

Chị Giếng vờ cựa mình, nói ú ớ:

- Sao bỗng dưng em lại hỏi chị ưng ai? Chị chẳng ưng ai!

- Chị giấu em.

- Không, chị không giấu em một tí ti gì!

Tôi không tin lời cả quyết của chị Giếng nhưng đành phải im lặng.

Mùa xuân năm sau, tôi lại được theo mẹ về quê ngoại. Và lại được theo chị Giếng ra gánh nước ở cái giếng đầu làng. Chị Giếng của tôi, sang năm mới đẹp hẳn ra, mắt đen lấp láy, má đỏ tưng bừng. Nhưng chị ít nói hẳn. Tôi lại được ngủ với chị Giếng trên chiếc chõng tre kê gần cửa  sổ, ngoài song cửa có tàu lá chuối đẫm ánh trăng, rung lật phật. Tôi trở lại câu chuyện cũ và lại hỏi:

- Chị Giếng ưng ai?

Chị trở mình, quay mặt về phía tôi:

- Thôi, chị không giấu em nữa. Trong hai người ấy, chị ưng một người. Nhưng chị không dám nói thẳng ra đâu. Chị sợ lắm.

Tôi nhổm dậy:

- Chị sợ gì?

Chị vít đầu tôi xuống, giọng lào phào:

- Chị sợ anh chàng chị không yêu, anh chàng vẫn xấn xổ gọi chị là “mình ơi” ấy. Anh ta tự cho mình cái quyền buộc chị phải ưng thuận và doạ chị, nếu chị ưng ai khác, anh ta sẽ giết người ấy liền!

Lúc bấy giờ tôi còn bé dại, tôi chưa biết có điều vô lý trên cõi đời này, lòng tôi đầy hăm hở:

- Chị đừng sợ. Đừng sợ… Bao giờ đám cưới chị, em sẽ đòi mẹ em cho về ăn cỗ cưới chị liền?

Bẵng đi nhiều năm tôi không có dịp về quê ngoại. Đến khi có dịp trở về thì mọi sự đã đổi khác. Già tôi đã thành một bà lão gầy khô, tóc bạc, mắt mờ. Già tôi sờ nắn cánh tay tôi, sờ khuôn mạt tôi để xem có thực là tôi không rồi âm thầm rên rỉ:

- Cháu ơi, già mất con Giếng rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu trên đời này còn có điều vô lý. Một đêm kia, anh con trai xóm dưới được chị Giếng đem lòng thương yêu, bị một nhát dao đâm từ phía sau lưng, xuyên suốt ngực, ở ngay trên nền cái giếng đầu làng. Dân làng ngờ anh con trai xóm trên, vì nổi máu tranh giành, ghen tức đến mức điên khùng đã phạm tội ác. Nhưng không có tang chứng gì… Máu của người xấu số rỉ qua kẽ nứt thành giếng, ngấm vào lòng giếng sâu. Cái giếng đành bỏ hoang, mạch nước ngầm biến mất, đất cát và rác rưởi phủ đầy dưới đáy giếng làm cái giếng khô đi. Chị Giếng âm thầm đau đớn, Kẻ điên khùng, nuôi âm mưu chiếm đoạt vẫn sống nhăn răng giữa làng. Chị được nuôi nấng trong tình thương yêu, đến tuổi đương thì như đoá hoa bừng nở, không phải để cho kẻ ác chiếm đoạt. Già tôi nói với chị Giếng:

- U nhìn vào mắt con thì u biết, con thương u. Nhưng u thương con còn hơn nhiều. Con không thể sống yên ở làng. Thôi, con đi đi…

Chị Giếng oà khóc nức nở. Rồi chị ra đi. Già tôi không khóc, chỉ ra vào ngẩn ngơ như cái bóng.

Đến bây giờ tôi vẫn nhớ về chị Giếng của tôi, có chút gì như huyền hoặc. Trời gửi chị xuống cõi đời này để thử thách cõi đời này chăng? Nay em muốn tìm chị, biết tìm ở nơi nào?

 

Cầu đá xanh

Cậu Tần, em họ mẹ tôi, bị mù sau một trận đau mắt nặng,  từ ngày còn nhỏ. Nhà cậu ở kề nhà bà ngoại tôi. Mỗi lần sang nhà cậu, tôi cố đi rón rén nhưng tai cậu thính lắm, cậu nghe được bước chân không hề phát ra tiếng động của tôi và cậu à lên ngay: “À, cháu cậu. Lại đây với cậu. Lại đây!”. Cậu Tần thường ngồi ở đầu hiên nhà, đan lát, chẻ đóm hút thuốc lào, vót tăm hoặc một việc gì đại loại như thế, mò mẫm mà khéo léo. Cậu gẩy đàn bầu, tiếng đàn của cậu mộc mạc, buồn não nùng. Cũng có lúc cậu ngồi im lặng, tấm lưng còng, cái cổ gầy nổi gân xanh, đôi tròng mắt lờ đờ chỉ một màu trắng đục cứ chớp giạt lên, như là cậu đang chăm chú nhìn cái gì đó. Cậu Tần đã lớn tuổi nhưng vẫn thơ ngây như trẻ con. Những hình ảnh ít ỏi cậu thu lượm được khi còn là chú bé sáng măt, ngày càng lấp lánh trong cái vùng đen tối mênh mông bủa vây đời cậu. Cậu rì rầm kể lại với tôi những trò nghịch ngợm, lội ao, trèo cây hoặc bắt rắn, hun chuột ở ngoài đồng. Rồi cậu bỗng náo nức:

- Cậu muốn ra cái cầu đá xanh ở đồng Ngà. Cháu đưa cậu ra nhé.

Đoạn đường từ nhà ra tới cổng làng, cậu Tần đã quen, cậu vừa đi vừa gõ gõ hoặc lia lia cái đầu gậy về phía truớc là có thể nhận biết những chỗ lồi lõm, những khúc quanh. Ra tới đường đồng, thành đường lạ nhưng cậu không cho tôi dắt cậu, chỉ được đi bên cậu, cái đầu gậy của cậu không ngừng gõ gõ, lia lia và cậu quả quyết:

- Cháu chỉ cần đưa cậu đi dăm ba bận là cậu nhớ đường, cậu có thể đi một mình. Rồi cháu xem!

Đồng Ngà ở xa làng, có con ngòi chảy ngoằn ngoèo, nhịp cầu đã xanh không biết được bắc từ thuở nào, cái phiến đá đều mòn nhẵn. Đầu cầu nổi một gò đất, sườn gò có gian quán nhỏ, mái ngói lên rêu, không có tường vậy, gió lùa thông thống. Cậu Tần buông cái gậy, nằm dài ra trên nền quán, nói thảng thốt như trong mơ:

- Đồng Ngà nhiều cua lắm. Ngày trước, cứ giấc trưa cậu ra đây lội bì bõm bắt cua, nắng há miệng nhưng vào cái quán này, nằm dài một lúc là tỉnh.

Rồi cậu lần ra cầu, sờ soạng từng phiến đá, bàn tay lần theo những vét nứt hoặc những chỗ sứt mẻ.

- Cái cầu này vẫn y nguyên, chẳng có gì suy xuyển. Cả vùng, chỉ có mỗi làng mình có cái cầu đá xanh. Mà lại ở giữa đồng. Hay thật…

Tôi rời quê ngoại, trở về nhà, quê nội. Dù không có tôi, cậu Tần cứ một mình dò dẫm ra tận cầu đá xanh đồng Ngà. Một lần cậu nhặt được con chó con, không biết từ đâu lạc đến, nằm rên ư ử trong bụi cây ven quán Ngà. Con chó ốm o, đầy mụn ghẻ, hai mắt đùn rử xanh. Mặc cho cả nhà phàn nàn, ca cẩm, cậu Tần tắm rửa cho con chó, cho nó ăn, vỗ về nó. Con chó lành bệnh, béo ra, sủa nhanh nhách, nó luôn quấn quýt bên cậu Tần. Tôi lại có dịp về chơi quê ngoại. Lúc ấy, con Vện của cậu Tần đã lớn, chỉ sau mấy ngày nó thấy cậu Tần yêu quý tôi, hễ tôi sang nhà cậu là nó chạy ra, vẫy đuôi rối rít. Cậu Tần ngồi gẩy đàn bầu. Con Vện dù đang chơi nhở đâu đâu cũng chạy vội về, ngồi chầu hẫu trước cây dàn. Vện ngồi im phăng phắc, chỉ hai vành tai dựng đứng của nó thỉnh thoảng hơi rung rung. Con Vện biết nghe đàn, vẻ như nó thấm thía tiếng đàn buồn não nùng của người chủ mù. Nó biết canh cây đàn bầu, cậu Tần thường móc vào cái mấu tre, treo lên vách. Hễ ai vô ý đụng vào cây đàn là Vện xông tới, sủa ầm lên.

Rồi tôi đi xa. Đi kháng chiến. ở rừng Việt Bắc kháng chiến, tôi vẫn nhớ về làng quê, nhớ cậu Tần của tôi. Không ngờ, ngày trở về cậu Tần khôing còn nữa. Một trận giặc càn, dân làng chạy nháo nhác. Cậu Tần mù, không thể chạy đi đâu. Cậu ở nhà, nấp sau cái cót thóc. Còn con Vện, cậu xua nó ra vườn. Lính Tây và lính bảo hòang lùng sục khắp làng, chúng xông vào nhà cậu Tần, ngó nghiêng, không thấy có gì khả nghi, chúng định bỏ sang nhà khác. Một tên lính nhìn thấy cây đàn bầu trên trên vách, táy máy gẩy vào dây đàn, nẩy một tiếng “phừng!”. Con Vện rúc kín ở góc vườn lập tức xông ra, nó cứ quẩn vào chân bọn lính, sủa ăng ẳng. Do thế mà bọn lính tiếp tục xăm xoi, chúng tìm thấy cậu Tần nấp sau cái cót thóc. Chúng lôi cậu ra sân đình. Rồi chúng lùa một số dân làng, trong đó có cậu Tần, lên bốt Mô. Số dân làng bị giam lại qua đêm ở bốt Mô. Còn cậu Tần, bọn giặc đã chắc chắn là người mù thật, đến xế chiều thì chúng thả cho về. Khổ thân cậu, mù loà, thoát khỏi đồn giặc nhưng biết đường nào mà đi? May còn con Vện. Con Vện chui lủi ngoài đồng, vẫn theo rõi chủ nó, trong đoàn người lam lũ bị sa vào tay giặc. Con Vện quẩnh quanh bên ngoài bốt Mô. Nó chạy lại bên cậu Tần, cọ người vào chân cậu, đuôi nó vẫy rối rít. Cậu Tần dò dẫm đi theo con Vện, con Vện thỉnh thoảng lại dừng chân, quay đầu, khẽ rên lên ư ử, như để báo hiệu và khuyến khích cậu. Cố lên, cố lên, thầy trò ta sắp về đến cầu đá xanh đồng Ngà rồi!

Cậu Tần về đến cầu dá xanh thì phía bên kia đồng, bọn lính đi càn xa bấy giờ mới trở về. Nắng chiều chênh chếch suốt cánh đồng vàng hoe, cánh đồng chết. Bọn lính thấy giữa đồng có bóng người di động chậm chạp. Chẳng cần biết người đó là ai, chúng chỉ trỏ rồi giơ súng ngắm và nổ cả một băng đạn dài.

Cậu Tần nằm vắt ngang bờ ruộng, máu chảy ra chan hoà. Con Vện chạy quanh cậu, tru lên thảm thiết… Con Vện nhất định không chịu về nhà. Bà con đi làm đổng thỉnh thoảng lại thấy con Vện xuất hiện bên mộ cậu Tần, nó đi quanh nấm đất, mũi cúi xuống hít hít. Nó gầy rạc, lông xác xơ. Rồi con Vện biến đâu mất. Có thể nó thành con chó hoang, cũng có thể nó đã chết vùi ở nơi nào…

 

Giấc mơ là giấc mơ

Thuở nhỏ, tôi coi anh Hiêm là bậc thông thái trong làng. Anh mê đọc sách. Với số đôg người làng quanh năm đầu tắt mặt tối lo kiếm miếng ăn, cái thú đọc sách của anh Hiêm thậm vô tích sự. Nhưng tôi cũng mê đọc sách, tất nhiên chỉ quanh quẩn những sách truyện trẻ con. Mỗi lần được theo mẹ đi bán lụa mua tơ ở chợ tỉnh, tôi thường lỉnh ra dãy phố bên cạnh chợ, ở đấy có một cửa hiệu nhỏ bán tạp hoá, giấy bút học trò và một ít sách báo. Anh Hiêm đã đứng trước cái quày kính bày hàng từ bao giờ, phía sau quầy là cô chủ hàng mặt hoa da phấn. Trong cái nhìn thơ dại của tôi dạo đó, cô chủ hàng sách báo là hiện thân quyến rũ của cả cái thế giới huyền diệu xa xôi, tôi chỉ dám đứng ngây ra chiêm ngưỡng. Chợt nghe cô chủ hàng hỏi: “Em cần mua gì?”, tôi đỏ mặt, toát mồ hôi, lưỡi líu lại. Anh Hiêm đã là chàng trai bảnh. Anh chỉ cuốn sách này cuốn sách kia, lại bắt cô chủ hàng lôi ra cả chồng sách cũ xếp ở ngăn dưới quầy hàng, cho anh chọn. Về nhà, anh Hiêm bảo tôi, cô chủ hiệu sách xinh đẹp thật nhưng mà ngốc, cô ta chỉ nhìn tên sách chứ không đọc qua một cuốn sách nào. Tội nghiệp cho tôi được lãnh trọn một đòn choáng váng. Tôi muốn cãi lại anh Hiêm, nhưng không dám. Anh Hiêm học hành dở dang, phải ở nhà chuyên nghề tơ củi. Để bù lại, anh đọc như bị ma ám bất kể sách gì anh kiếm được! Những buổi chiều hai anh em ra hóng mát ở khu miếu, có những cây muỗm già xanh rợp bên sông, anh Hiêm thường kể đủ chuyện trên trời dưới bể. Say đến rạo rực nôn nao là những cuộc thám hiểm làm kinh động, thậm chí làm đảo lộn thế giới. Máccô Pôlô, Magienglăng, Cristôp Côlông. Tôi chỉ hiểu được đại khái… Cũng nhờ anh Hiêm mà tôi hình dung được lơ mơ vê dòng sông Mêkông, đoạn sông chảy vào nước ta gọi là sông Cửu Long, có nghĩa là Chín-Con-Rồng. Anh Hiêm nói chắc như đinh đóng cột: “Anh quyết phải đi Sài Gòn. Làng mình có nhiều bà con làm ăn ở trong ấy. Anh sẽ quyên tiền, mua một con thuyền nhỏ, rủ thêm mấy đứa máu mê, làm một chuyến thám hiểm dòng Mêkông!”. Đã bao lần anh ngồi hí hoáy vẽ ra giấy, lại có lúc dùng que vẽ nguệch ngoạc trên cát, dòng Mêkông chảy ngoằn ngoèo. Anh đánh dấu chỗ này, rồi xoá đi, đánh dấu sang chỗ khác, từng chặng đường thám hiểm và tưởng tượng vô số chuyện động trời.

Bây giờ, anh Hiêm của tôi đã lên lão bẩy mươi, rút cục không một lần xê dịch, sống mọc rễ ở làng. Nhưng ông anh vẫn là bậc thông thái, ít nhất là với riêng tôi. Ông biết mọi ngóc ngách, xó xỉnh, thuộc mọi chuyện kín hở của mọi nhà, mọi người trong làng. Tôi thú nhận với ông Hiêm là tôi được đi đây đi đó, tạm coi là có chút hiểu biết linh tinh nhưng mỗi lần về làng, thăm lại những nơi chố cũ, nếu không được ông chỉ dẫn thì tôi nhầm lẫn lung tung cả. Ông anh tôi thản nhiên nói: “Chú nghĩ thế, hả? Còn tôi, mỗi lần gặp chú tôi lại nhớ lại giấc mơ thời trai trẻ của tôi. Chú hiểu không, mỗi người ai chẳng từng có một giấc mơ đẹp, nhờ nó mà ta nhận biết được phần có nghĩa và phần vô nghĩa của đời mình!”.

 

Bác hai Niệm

Bác hai Niệm ở một làng ven đê Đáy, tuy chỉ có họ xa về bên ngoại nhưng hễ có dịp là mẹ tôi lại dẫn tôi đến thăm bác. Bác suýt thành một ông thầy đồ, còn cha tôi đã là ông đồ nho, dù học trò cứ thưa dần rồi hết hẳn; chuyện chữ nghĩa khiến hai nhà trở nên thân tình. Cha tôi mất sớm, bác hai Niệm cứ trông thấy tôi là tỏ lòng buồn thương, nhất định bảo mẹ tôi cho tôi ở lại chơi nhà bác vài ba ngày. Cái làng nhỏ, nghèo xơ xác, dân trí còn u mê, chỉ có bác hai Niệm là người có thể cho chữ, viết lên câu đầu những nhà mới dựng mấy chữ thành hiền: “Càn, nguyên hanh lợi trinh”, thế đã đủ là bậc thức giả. Bác sống rất mực thước, nghiêm cẩn. Vợ con bác chỉ quanh quẩn dưới nhà ngang, dưới bếp, hễ lên nhà trên thì phải đi cửa gian bên, tránh gian giữa là nơi thờ phụng. Bác coi như của gia bảo, những cuốn sách viết tay hoặc in khắc gỗ trên giấy bản, đóng bìa cậy, xếp thành chồng trong cái quang tre hai nẹp, treo cao sát mái nhà. Gặp hôm trời nắng, tôi từng được giúp bác dỡ sách, đem ra sân phơi, hết nắng lại cất vào, treo lên. Bác hai Niệm giảng giải cho tôi nghe về đức Khổng Tử cực kỳ thâm thuý, tiếc là tôi chưa đủ trí khôn để hiểu, tôi chỉ nhớ được câu này: “Chiếu trải không ngay không ngồi, thịt thái không vuông không ăn, ngài là bậc thánh!”.

Thoạt đầu tôi là đứa trẻ lạ, dần dần bọn trẻ con trong xóm cũng quen tôi. Nhưng chúng không dám vào nhà bác hai Niệm, không dám gọi thành tiếng, chỉ đứng thập thò ngoài cổng, vẫy tay ra hiệu rủ tôi đi chơi. Đêm trăng sáng, bọn tôi tụ họp ở đầu ngõ xóm. Nhưng  cái ngõ xóm quá hẹp, lại khúc khuỷu gồ ghề, chơi trò gì cũng vướng víu. Giá được vào chơi trên sân gạch rộng thênh thang nhà bác hai Niệm thì sướng mê tơi. Bọn chúng gạ tôi: "Mày được ông Niệm yêu, mày thử về nói với ông ấy một câu, nói thật khéo vào, xem sao…”. Tôi chần chừ, lần lữa và rút cục, tôi cũng như bọn chúng, không dám mở miệng.

Bác Hai Niệm có người em gái lấy chồng Phủ Quốc, bên kia sông Đáy, người làng gọi theo con là cô ba Tèo. Không biết gia đình lục đục thế nào, cô ba Tèo dắt theo cái Tèo, bỏ nhà chồng, về nhà bác hai. Cô ba vừa khóc sụt sùi vừa giãi bầy tình cảnh, van xin ông anh thương xót, cho cô được bỏ chồng giải thoát đời mẹ con cô. Bác hai Niệm ngồi im phắc. Rồi bác nói chắc nịch: “Phận đàn bà, không thể thế được. Cô là em gái tôi, hẳn cô phải hiểu thế nào là tứ đức tam tòng…”. Cô ba hiểu nhưng cô cứ lỳ ra ở nhà ông anh. Bác hai Niệm cũng có chút động lòng, bác cố nén và vẫn khăng khăng: “Không thể được. Cô làm thế là trái đạo thánh hiền, nhơ nhuốc cho cô, nhơ nhuốc cả cho tôi!”. Bác cho cô ba nấn ná thêm vài ba hôm rồi nhất quyết bắt cô ba phải dắt cái Tèo về nhà chồng. Tình cảnh của cô ba Tèo ở nhà chồng ngày càng bi thảm. Khoảng nửa năm sau, cô ba héo hon dần, lâm bệnh rồi chết. Giỗ đầu cô ba xong, chồng cô tính chuyện nhẹ nhàng để lấy vợ mới, liền dắt cái Tèo sang sông, trả nó cho bác hai Niệm. Người em rể bác, thoắt cái thành người dưng, rành rành là quân bất nghĩa, bất nhân nhưng nhận ra thế thì đã muộn. Chỉ còn biết thương cái Tèo bơ vơ, côi cút. Cái Tèo bé như hạt thóc kẹ lại hay sài đẹn, lúc nào cũng buồn thiu. Vợ con bác hai Niệm bận việc đồng, bác ở nhà với cái Tèo, chăm bẵm, dỗ dành nó nhưng nó cứ khóc ời ời. Bá cũng muốn khóc lắm nhưng không thể khóc. Bác ngơ ngác thất thần, cứ ngửa mặt lên nhìn trời, tay nắm ngực áo giật giật và kêu lảm nhảm: “Tại tôi cả. Tại tôi cả. Tôi là đồ bỏ!”.

Chuyện trên đây tôi chỉ nghe người lớn kể lại. Nhưng một lần đến chơi rồi ở lại qua đêm ở nhà bác hai Niệm, chính tôi được chứng kiến cảnh tượng mà thiên hạ vẫn loan truyền. Ấy là một đêm giữa tháng, trăng giãi vàng trên vuông sân gạch rộng thênh. Bác hai Niệm bế cái Tèo ngồi đầu hiên. Nhưng cái Tèo cứ chuồi ra khỏi lòng bác, khóc ời ời. Nó khóc hết hơi, chuyển sang rên ư ử trong cổ họng. Bác hai Niệm ngửa mặt lên nhìn trời, tay nắm ngực áo giật giật và cũng rên rỉ theo: “Giời ơi, giời hãy trừng phạt tôi đi! Tôi là đổ bỏ!”. Cái Tèo đang ư ử trong cổ họng bỗng nín bặt. Nó nghển cổ nhìn ra phía cổng. Phía ấy, bọn trẻ con trong xóm đang thập thò, vẫy tay ra hiệu rủ tôi ra nhập bọn. Bác hai Niệm như hồi tỉnh lại, khẽ bảo tôi:

- Cháu ra rủ bọn trẻ vào cả trong sân này, cho cái Tèo nó chơi cùng với.

Chúng tôi chơi trò Rồng rắn đi đâu? Đi lấy thuốc cho con ông cả… Cái Tèo được đứng cuối hàng, làm khúc đuôi con rồng con rắn. Rồng rắn lượn vòng vèo, ông thầy lang cố đuổi bắt lấy khúc đuôi nhưng không sao bắt được. Cái Tèo thích quá, cười khanh khách…

Bác hai Niệm của tôi, chính vào lúc bác tự giận mình là đồ bỏ thì bác hai làm được điều hay, ít nhất là cho bọn trẻ con trong xóm cái điều mà chúng hằng mơ màng.

 

Lão Khà

Có đôi vợ chồng trẻ, không biết từ đâu phiêu bạt tới, ngụ cư ở làng. Anh chồng tên Khà. Bà ngoại tôi nới. “Thằng Khà khéo tay hay làm, lại hiền như đất, chỉ phải tội con vợ nó diết nghiệt với nó quá lắm. Ông giời hay chơi trò thật oái oăm!”. Tôi cùng lũ bạn nơi quê ngoại thường quẩn theo chân anh Khà. Anh Khà cũng thích bọn tôi. Một nhà nào đó trong làng, thậm chí trong hàng tổng cần hạ bụi tre, thế nào cũng phải gọi anh Khà. Bụi tre ken dầy là thế, dong tre vướng mắc vào nhau, không chỉ cậy khoẻ mà xong được. Anh Khà đứng trước bụi tre, ngắm nghía, ước lượng rồi mới giơ dao. Từng nhát dao chặt khoan thai, ngọt lịm. Lúc rút cây tre vừa chặt ra khỏi bụi, anh vừa kéo vừa lựa, tiếng dong tre kêu “roạt, roạt…” nhịp nhàng. Anh Khà pha chẻ tre tuyệt khéo, lại có thể thưng vách, làm giạ, đóng giường chõng tre… đều không chê vào đâu được. Đến như mấy cái gộc tre già, anh hí hoáy cưa gọt một hồi là thành những cái ghế ngồi, những cái móc treo quang thúng, tỉ mẩn hơn thì thành guốc gộc xỏ quai mây, chiều theo ý thích của mấy cụ bô lão. Anh Khà làm mọi việc, tất nhiên là để kiếm miếng cơm manh áo cho cả nhà,. Vậy mà hết buổi làm, cứ bước chân về đến cổng là chị Khà ở trong nhà xoe xoé nói vọng ra. Chị chì chiết, đay nghiến anh đủ mọi chuyện có thật và không có thật mà chị cho là trái ý chị. Anh Khà đành nín chịu, bởi anh biết rằng chỉ cần anh mở miệng là chị sẽ choang choác lên, đến hàng xóm cũng phải điên đầu.

Những chiều hè hây hẩy gió Nam, bọn trẻ con chúng tôi nô nức bám theo anh Khà ra đồng thả diều. Lá diều của anh từng gây kinh ngạc cho tất thảy những tay chơi diều trong vùng. Sải cánh nó cong mềm, rộng đãy gian nhà, có gân chỉ, lớp giấy bản bồi thẳng căng. Dây diều tết bằng lạt cật tre non, từng cái lạt mỏng đều, đem luộc kỹ. Công phu nhất là bộ sáo bè, cái lớn bằng bắp tay, cái nhỏ như đoạn cán gầu. Lá diều gặp gió bốc lên, càng lên cao càng bốc mạnh rồi nó gần như đứng im. thỉnh thoảng hơi chao liệng, như vành trăng non lơ lửng giữa trời. Anh Khà buộc dây diều vào cọc, nằm khểnh trên nền cỏ, đôi mắt lim dim, hễ có đứa nào trong bọn chúng tôi ngồi quanh anh vô ý gây ra tiến động là anh trừng mắt lên. Rồi anh lại lim dim, chìm đắm vào tiếng sáo diều vi vu trầm bổng, đầy ắp cả không gian.

Đêm xuống, anh Khà một mình nằm khểnh, nghe sáo diều cho đến khuya mới thu diều, lững thững đi về nhà. Chị Khà đáng nằm trên giường vỗ về đứa con nhỏ, lập tức bật dậy:

- Nảy, này… sao không ngủ quách ở ngoài đồng, còn mò về làm gì hử?

Anh Khà chỉ ầm ừ.

- Điếc hử? Hay là câm? Hay là vừa câm vừa điếc?

Anh Khà vẫn chỉ ầm ừ. Chị Khà nổi ba máu sáu cơn, giọng chị rin rít qua kẽ răng, vừa kể lể vừa lý sự cù cưa dai nhách. Anh Khà đánh phải mở miệng, như giận dữ, lại như kêu than:

- Thôi đi. Im mồm đi, cho hàng xóm người ta còn  ngủ. Tôi cũng lam làm, cũng bới đất lật cỏ, đổ mồ hôi sôi nước mắt như mình, có khi còn hơn mình. Không cần phải giảng giải tôi cũng biết đời là thế. Đời còn là cuộc chơi, mình nghe thủng chưa?

Bây giờ anh Khà đã là ông lão tám mươi, có gốc gác bền vững ở làng, với cả đàn cháu chắt. Một lần về thăm quê ngoại, tôi gặp ông lão Khà đi chăn con nghé, trên bãi tha ma ở lảnh góc đồng. Con nghé vừa nhú sừng, cứ chạy tung tăng. Còn ông lão thì bước lững thững, chốc chốc lại ngửa mặt lên nhìn trời. Giây phút ấy, tôi nhớ lại mọi chuyện về anh Khà của tuổi thơ tôi và tôi đinh ninh ông lão Khà hiện cũng đang nhớ lại, có thể là nhớ cánh diều ngày xưa… Nhưng tôi nông cạn, tôi đã lầm. Sau một hồi trò chuyện, ông lão bỗng nói:

- Bà lão nhà tôi về lâu rồi, mồ yên mả đẹp ở kia kìa, lâu rồi. Tôi sống dai quá nhưng cũng sắp đến cõi rồi. Bây giờ tôi mới hiểu ông trời thường sắp đặt oái oăm. Tôi chịu đựng gần suốt cả đời người cái tính diệt nghiệt của bà lão. Vậy mà từ ngày vắng bà lão, thế gian đâm ra trống trải, chỉ còn nỗi nhớ thương. Mà lạ lùng, tôi chỉ nhớ thương, mỗi cái tính diết nghiệt của bà lão?

Ông lão Khà nói giống y điều bà ngoại tôi thuở xưa từng nói. Tôi lặng im trước cái nhìn vào mênh mông thăm thẳm của lão Khà.

 

Luật bù trừ

Về già chú Phấn trở nên ù lỳ, yên phận còn vợ chú thì trái lại, sinh ra đáo để tai quái nhưng chỉ với riêng chú mà thôi. Vợ chú cứ khơi khơi rỉa rói chú: “Đời ông là cái đời vứt đi!”. Chú ngơ ngơ, cái nhìn trống rỗng, vẻ như không hay biết gì.

Chú Phấn là rể họ ngoại về đằng bà ngoại tôi, lại ở khác tổng, khác làng nhưng thuở trẻ chú có nét khác người nên tôi thích gần chú. Chú tài học lỏm, bất kể việc gì chỉ cần nghe qua, nhìn qua coi như cũng biết, cũng làm được. Chẳng hạn, chú chỉ đi chơi la cà mấy nhà, vừa gẫu chuyện vừa ngắm nghía những bức tranh khảm trên cánh cửa tủ chè là chú nhớ nhập tâm cải hình vẽ lẫn tích chuyện. Về nhà, chú vẽ lại trên tường, nét mực nho trên nền vôi trắng, khéo léo một cách ngô nghê, bọn trẻ con chúng tôi rất thích. Những Văn Vương cầu hiền, Đào viên kết nghĩa, Tam cố thảo lư… và gì gì nữa tôi không nhớ xuể. Có một bức tranh do chú Phấn tự ý vẽ ra, nguệch ngoạc một khóm trúc, một mái tranh tềnh toàng với một ông râu dài, trần như nhộng, nằm ngủ trên nền đất. Chủ Phấn giảng: :”Đó là ông Lưu Linh, uống rượu như thần, say thì cởi bỏ quần áo, nằm lăn ra ngủ như đứa trẻ sơ sinh. Có người cười ông. Ông Lưu Linh bảo, ta lấy trời làm nhà, lấy nhà làm làm quần áo, người phàm không hiểu được ta!” Rồi chú khoát tay: “Lũ chúng ta đều là người phàm tuốt!” - giọng chú vẻ như buồn, lại như vui vì được làm người phàm.

Chú Phấn sẵn có tài vặt, đâm ra lông bông, việc nhà chú phó thác tất cho vợ phải gánh vác, lo toan. Một năm chú theo lò vật đi thi đấu khắp nơi. Lên đến Ba Vì, chú gặp một cô gái ở bến Đá Chông. Cô này theo các bà lang Mán lên núi hái thuốc nam, tất nhiên cô chỉ biết được những cây thuốc thông thường nhưng cô cũng mặc quần áo Mán, nói giọng Kinh lơ lớ, đem thuốc đi bán dạo ở các chợ quê. Cô bị một cái nhọt bọc sau lưng, gọi là nhọt hậu bối, cái nhọt hành hạ cô mà cô thì không biết cầu cứu ai, không biết chữa bằng cách nào. Chú Phấn nhớ đến ông lang Điền, liền quay về lấy thuốc cao của ông lang. Nhờ mấy lá cao tan, cái nhọt hậu bối của cô gái vỡ ra, dán tiếp thêm mấy lá cao hút mủ là sạch nhọt. Chú Phấn sống với cô Đá Chông, già nhân ngãi non vợ chồng, cô đá Chông le te chạy chợ nuôi chú, chú ngồi không mãi cũng chán, liền mở cửa hàng vẽ tranh sơn thuỷ và vẽ truyền thần. Thỉnh thoảng mới có người động rồ mua tranh sơn thuỷ tô màu loè loẹt, đường nét ngô nghê của chú. Còn truyền thần, chú vẽ phóng to theo ảnh nhưng đâu có giống, được cái chú khéo tán nên khách đặt hàng cũng xuôi tai.

Chú Phấn ở miết với cô Đá Chông nhưng giỗ tết chú vẫn nhớ và vẫn về quê nhà. Vợ chú giận, không thèm hỏi han, chẳng hiểu chú làm cách nào, trước khi chú đi vợ chú lại tươi hơn hớn. Sợi dây ràng buộc vợ chồng chú thím là đàn con nít, cứ đều đều ba năm đôi mà toàn con gái, đến đứa thứ bảy mới ngừng.

Tôi đi kháng chiến, đến khi trở về được biết chú Phấn có thời gian lang bạt xuống Phủ Đình, theo đám lái buôn thuốc Tây từ vùng tề ra vùng tự do. Một đêm vượt sông Đáy, quãng gần Bến Đục, bị Tây phục kích bắn chìm đò, hàng hoá mất hết, may chú dạt được vào bãi ngô. Chú thất thểu tìm về nhà trọ. Cô chủ nhà trọ giữ chú lại. Nhưng chú vừa hút chết, lại trắng tay nên chán nản, nhất định tìm về quê. Gần đây chú Phấn gặp lại người cũ, đã là bà nạ dòng nhưng còn xuân sắc, bà này không biết bị chồng bỏ hay bỏ chồng, bà ta bươn chải ngoài bến ông để nuôi chú, còn chú từng đi bán thuốc tây, biết một số mặt thuốc, tự phong cho mình là y sĩ, đi tiêm thuốc và bán thuốc rong trong vùng. Một lần tôi lên Trung Hà thăm chú. Nhà chú vốn là cái điếm canh đê cũ nát được sửa sang lại và nối dài thêm mấy gian, gian lợp ngói tây, gian lợp giấy dầu, tất cả dài thượt như cái ống. Đêm nằm trên chiếc giường dẻ quạt cùng chú Phấn, quanh nhà tiếng ếch nhái kêu râm ran, dưới gầm giường tiếng côn trùng rỉ rả không ngớt. Tôi hỏi thăm công việc của chú, chú trở mình và nói:

- Ôi dào, bà ấy kiếm là chính chứ tôi thì ăn thua gì. Loanh quanh mấy viên thuốc chữa nhức đầu, cảm cúm, đau bụng, đi ỉa chảy với mấy ông thuốc tiêm trợ sức, vitamin... Nhưng bà con ngoài bãi, trong đồng đều gọi tôi là y sĩ, gọi luôn bà ấy là bà y sĩ. Nhờ thế, việc làm ăn của bà ấy dễ thông đồng bén giọt. Cũng hay!

Tôi hỏi lại chú, chú có ý định bám trụ ở đây lâu dài không, chú trả lời tưng tửng:

- Tôi chẳng có ý định gì sất. Bám hay buông là do sự đời đưa đẩy, mình bận tâm cũng đến thế. Thôi mặc, tôin côi nó nhẹ tênh!

Nghĩa là đời chú Phấn vẫn lang bạt kỳ hồ. Gần đây chú về ở Trạm Trôi, ngay phố huyện nhà. Nghe nói trước đây có một bà buôn chuyến, goá chồng, thường qua lại bến Trung Hà, một đêm mưa bị cảm được chú Phấn tiêm cho mấy mũi. Bây giờ bà goá Trạm Trôi ngồi sạp hàng ở ngay chợ huyện. Chú Phấn sa vào cảnh cơm no bò cưỡi sướng rơn, chỉ có điều chú sắp về già, sức vóc chẳng còn mấy nả. Trạm Trôi gần nơi đô hội, chú không thể hành nghề vẽ tranh dởm và y sĩ dởm. Nhưng rồi cũng có cách: Chú xoay sang nghề kẻ biển và trang trí phông màn đám cưới. Đám cưới nhà quê, chỉ cần chữ song hỷ bằng giấy trang kim lấp lánh và hai chữ đầu tên cô dâu chú rể lồng nhau sao cho đúng cách, còn những thứ khác tha hồ tuỳ hứng. Nhà đám vui vẻ, chè thuốc sẵn, rượu uống tràn cung mây...

Tôi không rõ những cuộc giăng gió của chú Phấn trước đây kết thúc thế nào. Riêng cái kết thúc ở Trạm Trôi thì cười ra nước mắt. Bà goá Trạm Trôi có gã con trai can tội gây ẩu đả, đâm chén nhau ngoài bến xe, phải đi tù. Ra tù, gã đột ngột xuất hiện trước cửa nhà, mặt đỏ gay, hất hàm hỏi chú Phấn: "Ông là ai?" Rồi gã phẩy tay: "thôi, ông không cần trả lời. Tuy ở trong tù nhưng tôi biết hết. Tôi chỉ cần nói thế, chắc ông biết cách tự xử thế nào cho yên!" Chú Phấn nấn ná, định chờ bà goá ở ngoài chợ về, tình thế không cứu vãn được thì cũng có lời từ biệt nhau. Gã con trai cười gằn: "Không việc gì phải lằng nhằng thế. Mình tôi nói chuyện với mẹ tôi là đủ. Ông biến ngay đi cho tôi nhờ!".

Chú Phấn trở về nhà ở quê. Lần này thì về hẳn. Chú già đi trông thấy, râu ria tua tủa, lưng lòng khòng, cái nhìn trống rỗng. Thỉnh thoảng tôi có dịp đến thăm chú, lần nào cũng thấy chú ngồi ở đầu hiên, tay cầm cái ào dài, chú vừa nói chuyện vừa đập đập đầu sào xuống mặt sân để đuổi gà, dù sân có gà hay khôing có. Bẩy người con gái đều đã đi lấy chồng. Nhà chỉ còn hai vợ chồng già. Chú Phấn nín lặng, mặc cho vợ chú la hét. Rồi chú nói với tôi, giọng ngậm ngùi: "Đối với bà ấy thì đời tôi là đời vứt đi thật. Thôi cứ để bà ấy la hét cho hả. Âu cũng là luật bù trừ?".

 

Đèn cù

Anh Tuý có hoa tay, biết làm đèn kéo quân (còn gọi là đèn cù). tuyệt khéo.

Hàng năm, cứ đến dịp Tết Trung thu là anh làm đèn cù, chỉ làm một chiếc thắp chơi trong nhà thôi. Anh mất công ròng rã cả tháng trời, mỗi ngày một tý, chẻ tre, vót nan, gá lắp khung đèn, dán giấy lợp rồi làm tán đèn, cắt quân, treo vòng quân, thử đi thử lại... Những đêm nhà anh Tuý thắp đèn kéo quân, bọn trẻ trong xóm kéo đến ngồi chật hàng hiên, chầu hẫu nhìn chiếc đèn được đặt trang trọng trên chiếc bàn nhỏ. Đèn mới thắp, chỉ cái lồng đèn sáng lên, bóng các quân đèn quay theo một vòng quay đều đều. Bọn tôi mỗi đứa thích một hình quân nên không đứa nào chịu ngồi yên, cứ luôn luôn nhấp nhổm, la hét nhốn nháo. A, ông quan cưỡi ngựa, A, chú lính đi hầu. A, anh thợ cầy chị thợ cấy  em bé thả diều. Rồi nhà cửa, trâu bò, gà lợn... tất cả cứ chạy vòng quanh, không đầu không cuối đâm ra tít mù. Tôi ngồi xem đèn cạnh thằng Còi, thằng này láu chỉ loáng sau nó đã chen lách lên tới sát chỗ để đèn. Rồi đám đông trẻ con cũng thưa dần, nhiều đứa làn lượt ra về để còn phá cỗ. Tôi nhích lên được chỗ thằng Còi. Nó quay nhìn tôi, vẻ thương hại và nó bỗng nói:

- Tao đố mày tại sao vòng quân đèn cù nó cứ quay, quay mãi?

Tôi ngẩn ngơ:

- Chắc là trong lồng đèn có cái máy, anh Tuý giấu ở dưới đáy lồng...

- Thế hả? - Còi thách thức - Vậy mày thử cúi nhìn  xem!

Cái đáy lồng đèn trống hoác, chỉ có hai nẹp tre bắt chéo, đỡ cái đĩa đèn dầu lạc. Tôi chịu và hỏi lại thằng Còi:

- Thế mày bảo vòng quân đèn quay được là vì cái gì?

Thằng Còi nghênh mặt lên:

- Vì cái tán đèn. Cái tán đèn quay lầm cho vòng quân quay theo.

- Ừ ừ... - Tôi phân vân - Nhưng tại sao cái tán đèn nó lại quay mới được chứ?

Thằng Còi đần mặt ra. Hoá ra nó cũng mù tít. Anh Tuý cười:

- Chúng mày biết gì mà cũng vặn vẹo nhau! Hãy đưa bàn tay lên và thử ở phía trên lồng đèn đây này. Có một luồng hơi nóng từ ngọn lủa đèn bốc lên, luồng hơi nóng luồn qua những khe hở tán đèn, làm cho cái tán đèn quay. Luồng hơi nóng ta không nhìn thấy, nó là cái vô hình. Quân đèn ta nhìn tháy, nó là cái hữu hình. Đèn cù là thế. Là cái vô hình điều khiển vòng quay của cái hữu hình, hiểu chưa?

Thằng Còi gật gù, nó giầu tưởng tượng, có thể nó hiểu. Còn tôi, tôi ngẩn mặt ra nhìn anh Tuý.

... Bây giờ anh Tuý đã thành ông già Tuý và vẫn sống ở quê. Ông già Tuý thường nhắn qua cô em gái tôi, hiện cũng ở quê, không biết tôi có còn nhớ cái đèn cù? Rồi một hôm, tôi có người bạn đi chơi một nước phương Tây về, cho tôi món quà. Nó là cái đèn trang trí, thắp bằng một bóng điện tròn, phía trên bóng điện cũng có cái tán, luồng hơi nóng từ bóng điện bốc lên làm cái tán quay và vòng nhựa mỏng đính vào cái tán, có kể những vệt màu sặc sỡ quay theo. Cùng là một kiểu đèn cù. Đèn cù Tây. Người Tây họ học ta hay ngẫu nhiên hai bên cùng có một phát kiến giống nhau nhỉ? Tôi không biết. Chỉ có điều nó gợi cho tôi nhớ lại cái đèn cù tuổi thơ và tôi định bụng sẽ đem nó về que tặng ông già Tuý, chắc ông già cũng thú vị. Không ngờ, do tôi nấn ná chưa kịp về thì đột ngột được tin ông già Tuý đã chết....

Ông già Tuý vốn khoẻ, vẫn đi làm đồng. Một buổi mải mê, mãi tối mịt ông già mới từ ngoài đồng về, đến cái ao đầu xóm liền rẽ xuống cầu ao rửa chân. Vừa khoả chân xuống nước, có con rắn nhỏ quấn lở cọc cầu ao đớp một cái đau nhói ở gần mắt cá chân rồi nó quăng mình vào bờ, luồn lên bụi tre. Ông già Tuý coi thường, cho rằng loài rắn quấn ở cọc cầu ao chỉ là rắn nước. Về nhà, ông già nhai một mồi thuốc lào, đắp lên chỗ rắn cắn rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, thì cẳng chân ông già sưng vù, da xám ngớt, toàn thân co giật đùng đùng. Hoá ra nó là con rắn lục, giống rắn cực độc, hiếm có ở đồng bằng, nó thường sống trên cây, không hiểu sao nơi cọc cầu ao lại có nó? Biết ra thì đã muộn... Hỡi ôi, một người cứ sống tự nhiên mà hiểu được lẽ huyền bí kết nên cái đèn cù vậy mà phải chịu cái chết bất đắc kỳ tử. Đây cũng là một lẽ huyền bí nữa chăng?

1994-99

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Nhân vật  

Nhà văn Sơn Tùng: một huyền thoại đời thường

VanVN.Net - Ngày 14-7-2011, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết ký quyết định 1083/QD-CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động cho nhà văn Sơn Tùng đã vì “đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, sáng ...

Nhà văn đọc sách  

Dạo chơi cùng thơ Nguyễn Xuân Hồng

VanVN.Net - Nhà thơ, nhà báo, đạo diễn, nhà biên kịch Nguyễn Xuân Hồng sinh ra, lớn lên và gắn bó cả một đời lao động sáng tạo với quê hương Bắc Giang. Nhưng những tác phẩm thơ, sân khấu, điện ...

Tư liệu  

Việt Nam với chiến lược biển (1)

VanVN.Net - (Trích phát biểu của ông Nguyễn Văn Đức, Thứ trưởng thường trực Bộ Tài nguyên và Môi trường, tại Diễn đàn Kinh tế Biển Việt Nam 2011 - Nha Trang ngày 08 tháng 6 năm 2011)…