Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Chùm “Những câu thơ rất khó xuống dòng” của Bùi Quang Thanh

03-10-2011 12:58:41 PM

VanVN.Net - Quả đây là những câu thơ rất khó xuống dòng: “Mắt chưa kịp cười, mắt kia đã khóc. Niềm vui như mụn vá mới mà nỗi buồn như tấm áo cuối đời - luôn song hành cùng tôi” bởi dòng cảm nghĩ của nhà thơ cứ triền miên không dứt. Vẫn dòng cảm nghĩ ấy, nhưng khi viết về nhà thơ Bùi Giáng thì chừng mực, trân trọng mà vẫn tả được chân dung một người rất khó tả, tài: “Một chân bước về bên kia: vĩnh cửu/ Một chân còn nán lại cõi trần chơi.” Tả nhà thơ Chim Trắng chưa thật tài lắm, nhưng cùng đầy yêu mến thiêng kính: “Một cánh chim trời từng lộng gió/ Bây giờ nhường lại để… thơ bay”.

Nhưng cũng nhiều bài nhạt quá, nhất là những bài ngâm vịnh, thăm thú cứ tự trôi đi hoặc lẫn đâu đó vào dòng chảy ồ ạt.

 

SONG HÀNH

Tôi nhặt lên niềm vui ai đó bỏ quên bên đường phố, thả vào chiếc cốc cuộc đời. Niềm vui lặn xuống đáy, còn nỗi buồn tràn ra ngoài miệng cốc. Niềm vui vay mượn không hề sủi bọt trong chính đời tôi. Nỗi buồn của ai cứ quấn lấy tôi như máu thịt.

Đêm cô đơn. nỗi buồn bò trên da lưng tê tê những bàn chân nhện. Xoáy vào trong khói thuốc tôi phả qua đình màn. Một nỗi buồn bị cắt thành trăm nỗi buồn. Trăm nỗi buồn bay đi trăm phương để sáng nay màu sương bàng bạc. Để sáng nay, nỗi buồn bám răn reo trên mặt người hành khất; trên đôi nạng gỗ không tiền tân trang màu sơn lở loét; trên mái tóc khô rơm còng queo của em bé bụi đời...

Sự chênh lệch nỗi buồn - niềm vui như Trời với Đất. Hôm nào cô bé bán bia ôm gục đầu vào vai tôi khóc suốt, em không nhận những đồng tiền thương xót của tôi. Lại hôm qua, cô bé nhà bên đi mừng sinh nhật bạn, chiếc xe đạp mi ni Tàu không cánh mà bay..

Mắt chưa kịp cười, mắt kia đã khóc. Niềm vui như mụn vá mới mà nỗi buồn như tấm áo cuối đời - luôn song hành cùng tôi.


NƠI ẤP TRỨNG *

Trứng Rồng nở ra Rồng! Lũ Rồng con chúng tôi lớn lên trong chiếc tổ cong cong hình chữ S, đầu gối lên núi Bắc, chân gác sóng biển Nam. Chiếc tổ như dáng rồng bay lượn, như dáng hình con sóng, chênh vênh bên nước bên non, chênh vênh nối Trời với Đất.

Lũ Rồng con không vương miện, không lòe loẹt sắc màu, ở với đất có màu nâu bùn đất; ở với rừng nhuốm màu chàm, màu lục; ở với sông có vẩy bạc, vây trong. Trăm năm rắn thành tinh. Ngàn năm Rồng cứ là Rồng, giữa vần vũ mây mưa vẫn mơ màng phun châu nhả ngọc.

Những nhà thông thái nói: "Mọi sinh vật bắt đầu từ nước" (?) Mẹ tôi bảo: "Cá Gáy vượt thác Vũ Môn để hóa ra Rồng!" Tôi đến Vũ Môn, nơi giao thoa giữa Trời và Đất, thấy ngọn thác từ chín tầng trời rơi vào trang cổ tích, thấy chín tầng mây chất chồng lẫn vạt ngô non. Có phải cha ông tôi xưa dựng nên đỉnh Giăng Màn cho Cá Gáy hóa Rồng qua màn mây trướng gió? Gió chẳng vô tình, mây không buông thả, cứ hát khúc ngàn năm con cháu Tiên - Rồng...

Em nhìn kia: phía ráng đỏ là cuối dòng sông - nơi lát nữa vừng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ của nguồn non mạch nước và con đò đêm chúng mình sẽ cặp bến Long Ngâm.

Long Ngâm, vẫn là những thân rồng xoắn quện vào nhau thành hình hài xứ sở. Đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, gió lay bờ đá, muôn âm thanh hòa tấu tự Thiên Cầm vọng mãi Đèo Ngang. Kỳ vĩ vì thắng cảnh, xúc động bởi chiến công, một dải non xanh nước biếc trập trùng mà hội tụ bao thăng trầm lịch sử. Đứng ở nơi đây em có nghe tiếng đàn trời phả vào trong âm âm sóng gió: tiếng Mười vạn tiền quân cùng Lý Thường Kiệt vượt Đèo Ngang vào Ô, Rí bình Chiêm; Mười vạn hậu quân reo làm an lòng vua Trần và quân dân Đại Việt; Mười vạn trung quân theo voi Nguyễn Huệ đập tan lũ xâm lược kiêu hùng. Đứng ở đây nhìn ra ba phía núi, những vỏ trứng rồng lúp xúp ẩn hiện mây mưa, tôi biết rõ vỏ trứng nào sinh đế, sinh vương, vỏ trứng nào sinh thi nhân, dũng tướng.

Cám ơn Mẹ Âu Cơ khéo khâu chiếc tổ rồng cheo leo trên bán đảo, để khúc ruột miền Trung thành nơi ấp trứng sinh nở anh hào; những đứa con của Long Quân vươn vai đi mở nước không vương miện trên đầu mà rực rỡ trời sao.

Và chính em - những gái cưng của Mẹ, đảm đang, chung thủy, dịu hiền - em chẳng biết mình là vành nôi của bao thế hệ, lời ru ngọt ngào cho đất nước hồi sinh.


LAY THỨC

Tình cờ tôi tìm được cuốn lý lịch ông tôi chuột đã gặm bốn bề, nanh vuốt thời gian bập vào quá khứ, từng con chữ long lanh như mảnh thủy tinh vỡ soi vào tôi bằng giọt mắt ngấn sương. Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân. Thì ra lũ chuột thính mũi nhọn răng  lại ưa máu thịt cha ông đẫm trong lịch sử...

Trước mặt tôi là Ngày Mai. Sau lưng tôi là Quá Khứ. Tôi đón nhận Ngày Mai dửng dưng. Tôi vĩnh biệt Hôm Qua thờ ơ như người buồn ngủ. Tôi vô tư nuốt những tháng ngày ngắn ngủi tạo hóa ban cho. Ngửa mặt lên trời tu chén rượu. Liếc mắt xuống đất kiếm nụ hoa... Bầu trời đầy mây bông mà tôi không nghĩ được tôi chẳng thể nào so với những chùm mây lơ đãng ấy: mây hợp, mây tan, mây rữa thành mưa bụi nhưng mây vẫn là mây trong vũ trụ xoay vần. Bông hoa nào cũng xinh tươi và mới mẻ, bên cạnh bông đang chuyển nụ còn chỗ của bông hôm qua đã tan vào gió chẳng để lại hình hài. Tôi không được như mây: tái tạo. Tôi không được như hoa: rực rỡ một thời. Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi... nếu sôi động chút nào (có chăng) cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người.

Tôi là tôi thôi - kẻ mắc nợ trần gian như Chúa Chổm. Nợ bầu trời một ngụm ô xi, nợ cánh đồng một bông lúa chín; nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ. Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp của mình giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa.

Tôi là tôi thôi, một sớm giật mình nhìn những mẩu chữ thủy tinh chuột gặm, cuống cuồng chạy đi nhặt nhạnh chắp nối quá khứ tiền nhân, ông cha tôi chứ đâu phải thiên thần; những mẩu chữ xếp vào nhau thành sợi xích kéo tôi ngược dòng thời gian nhưng không lạc vào vườn cổ tích; nơi tôi đến là nơi rất thực và tôi đã tìm ra báu vật của mình.

Lịch sử ông cha, lịch sử xuyên qua nắng - mưa - máu - lửa. Những trang huyền thoại kia truyền từ đời này sang đời nọ là để làm thi vị hóa cuộc trường tồn gian khổ trên dải đất chênh vênh. Lịch sử ông cha tôi có hình dạng tảng băng: một phần nổi, ba phần chìm - kẻ vô tâm chẳng thể nào hiểu được.

Ai dám bảo chín mươi chín đỉnh non Hồng không phải là ẩn số? Ai chưa dám tin Kinh Dương vương từng tọa lạc nơi này? Đàn chim phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn lưu lạc nơi đây?

Đừng dùng mũi xà beng cậy vào đá núi mong khơi lên cổ vật ngàn đời. Dưới đám mây ảo mờ Hương Tích, nàng Diệu Thiện ôm nguyệt cầm cất tiếng hát khơi vơi. Nàng kể về giải đất hẹp phơi mình trong gió cát, những người nông dân một nắng hai sương tần tảo nuôi đời; rằng giọt mồ hôi trên hạt thóc, củ khoai cũng mặn không kém gì muối chưng lên từ biển; rằng: chẳng phải ngẫu nhiên mà hạt lúa cũng tự mình hai đầu biết nhọn; rằng: dòng Lam xanh trong bởi có đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Cám ơn nàng đã cho ta lẽ sống: cội nguồn.

Nàng kể: từ nền Trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thi - phú - dân ca; lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn; lời phường cấy, phường cày mộc mạc giọng đò đưa; thiết tha câu phường vải, ca trù...

Nàng kể về những chiếc áo tơi xù lông trong nắng hạ, những cặp môi chín trầu thắm đỏ buổi chiều đông cứ xôn xao bốn phía ruộng đồng lời vấn vít yêu đương cùng bao chuyện nhân tình - thế sự...

Cái giàu đang ở tương lai. Cái nghèo chưa thành quá khứ. Những câu ca muôn thuở dăng mắc cõi lòng.


DÁNG MẸ

Con không hình dung nổi Mẹ khi dẫn đàn con đạp núi xuống đồng bằng; con chẳng thể hình dung những ngón chân trần lần đầu tiên víu lên mép biển. Mái nhà Đông Trường Sơn thì dốc thế kia, lổn nhổn đá tai mèo trắng lòa mép sóng.

Bàn tay không của người mẹ trẻ, những bàn tay không của đám trai tráng đang khao khát trưởng thành, từ cheo leo làng bản xuống chài lưới định canh, con ốc con cua bữa đầu thay tôm cá.

Ai trong số những người con của Mẹ trở thành thần Khoai, thần Lúa? Ai đóng cối xay? Ai ghép ván lướt thuyền? Mảnh buồm đầu tiên căng gió ra khơi làm bằng vỏ cây hay bằng phên tre nứa?

Cô gái nào là dâu đầu chị cả biết kết nón quai thao, biết đan áo tơi chằm? Điệu hát đầu tiên ru trẻ dưới đồng bằng có na ná câu then câu lượn?

Ai cho con tằm ăn lá dâu thay lá sắn để kén thành tơ, tơ thành lụa, mớ ba mớ bảy dập dìu? Vôi bạc trầu cay đắng chát hạt cau ai ghép chúng nên đôi nên lứa?

Cha độc mộc ngược sông Hồng, sông Mã. Mẹ nhớ thương đâu bến đợi, bến chờ? Bình minh lên sau những gọng vó bè, hoàng hôn rớt cuối lửa nương, khói rẫy.

 Cha và Mẹ giã từ hạnh phúc lứa đôi đi tìm miền Đất Hứa, dời núi chuyển non tạo lập đồng bằng. Rất nhiều năm sau người châu Âu rẽ sóng dõi trăng tìm ra châu Mỹ, châu Đại Dương - cũng vẫn từ đam mê chinh phục.

Mẹ là người đàn bà đầu tiên trong cổ tích dựng nước non bằng một bọc trứng Rồng.

Đất nước vững bền tự bốn ngàn năm, ai tạc nổi dáng hình của Mẹ?

 

Trước cây si Buôn Đôn

Rừng núi muôn năm lắng vào gốc si già, già mà vẫn tỏa lan nghìn mạch sống.

Bám vào đất, vào sông, vào mưa, vào nắng, cuộc sống trường tồn qua mỗi búp non tơ. Những mầm xanh xanh đến không ngờ; độc lập, cộng sinh: đất trời hòa quện. Sông cứ chảy, gió cứ xô, mây cứ trôi, thời gian đi và đến... gốc si này bám chặt với Buôn Đôn.

Rừng thiếu đất cây bám vào sông? Sông chảy về đâu? Cây níu sông ở lại. Dòng Sê Rê Pốc quẩn quanh trước khi về xa ngái - phải tình rừng quấn quýt quá sông ơi? Qua dáng cây thấy dáng núi, dáng người: tồn tại, kế thừa, mở mang, phát triển. Buôn Đôn ơi một lần ai đã đến chẳng thể nào kìm nén được tình... si.

Chiếc đàn T'rưng - rung rinh nhịp cầu tre, mềm mại run trong gió ngàn sương núi. Em gái Buôn Đôn vai gùi lên rẫy. Chàng trai Buôn Đôn ngất ngưởng bành voi. Duyên dáng tà váy ngắn, bình dị mảnh khố dài, cái đẹp cái hùng ngự trị miền sơn dã. Bình yên hôm nay ánh lên từ mắt lá; bão táp ngày qua lặn dưới vạn thân cành. Cao nguyên xanh. Tây Nguyên xanh. Trời đất điệp trùng xanh. Cuộc sống dâng hương từ buôn làng, ruộng, rẫy... 

Cồng chiêng gióng lên. Lửa trại cháy lên. Lễ hội vòng đời, vòng cây, loang loáng những bước chân, những vòng bạc vòng đồng, váy thêu thổ cẩm. Nào Đam San, Đăm Di, Xinh Nhã, giáo khiên, chân đất đầu trần. Rượu cần ngọt môi người chín đỏ; điệu xoang dập dồn như sông chảy đá lăn.

Ô cây si! Ta cũng là cây si rễ cắm đất Buôn Đôn. Ta chôn chân nơi đây. Ta chết lặng nơi đây. Ta không về được nữa. Cơm lam em đốt. Cà đắng em xiên. Đừng ru ta rằng: "Có thương nhau thì về Buôn Ma Thuột".

Hãy cho rễ si ta bám đất. Hãy cho lá si ta xanh mát giữa trời.

Buôn Đôn ơi...

 

 

CHÙM THƠ VIẾT VÀ HOÀN THIỆN TẠI TRẠI  SÁNG TÁC VĂN HỌC TAM ĐẢO 9/2011

 

Địa đạo Vịnh Mốc

Địa đạo như bài thơ khoan sâu vào đất

Du khách đi tìm dấu xưa ẩm mốc

Họ quên tác giả bài thơ đang cầm cuốc, cầm cày

vừa mỉm cười với họ đâu đây

 

Sóng rủ rỉ lời riêng không phải ai cũng hiểu được

Tiếng nấc nghẽn từ lòng đồi sáu mốt (61)

Mảnh ván thuyền người cảm tử quân đi

Cồn Cỏ mờ xa nhắn nhủ điều gì?

 

Lịch sử chọn đây là nơi đối mặt

Cái ác chọn đây làm nơi hủy diệt

Những trẻ thơ  thay sữa – miếng lương  khô

Cuối hầm sâu ngọng nghịu tiếng “i…tờ”

 

Vịnh Mốc -

mảnh đồi khô cưỡi trên sóng biếc

nắng và gió, và đói nghèo quyết liệt

 

Vịnh Mốc –

những năm thập kỷ sáu mươi:

trước mặt là đại dương của cái chết

là hứa hẹn của tương lai

là hạm đội Mỹ như quan tài sắt

là miền Nam thương yêu…

sau lưng là trường thành bằng quyết tâm và xương máu

là những chiến binh tiếp viện

như lớp lớp thủy triều

 

Ta thắp đuốc xuyên vào lòng đất

Nuôi Sự Sống từ trong Cái Chết

Nén quyết tâm vào trong quyết liệt

Nuôi mặt trời trong mỗi trái tim

 

Vịnh Mốc

Khúc ruột miền Trung eo thắt – ruột bầu

Chạm vào đâu cũng bầm tím thương đau

Nơi xuất phát những binh đoàn thần thoại

Như bão táp lướt qua dòng Bến Hải

Qua Cồn Tiên, Dốc Miếu, Khe Sanh…

Cơn bão huyết đã đi vào bất tử

Cho muôn sau Tổ quốc yên bình.

 

Địa đạo như bài thơ khoan sâu vào đất

Du khách đi tìm dấu xưa ẩm mốc

Họ quên tác giả bài thơ đang cầm cuốc, cầm cày

vừa mỉm cười với họ đâu đây

 

                                          9/2011

 

Đêm Mộc Châu

                Tặng Bảo Trang

Mộc Châu vào hội, người xuôi núi

Thổ cẩm Mông trôi  tím phố chiều

Em tôi kiều diễm màu áo Thái

Váy dài, xà tích với khăn piêu

 

Xà tích, khăn piêu – nền lá xanh

Nhụy hồng, cánh tuyết, đóa ban lành

Ôi người Tây Bắc, tình Tây Bắc

Chén rượu đêm mừng chếnh choáng anh

 

Em mời “khát vọng”, tay quàng tay

Rượu chạm đầu môi đuôi mắt say

Đuôi mắt cận kề như lửa đốt

“Au hành”, “Pay nhé”…lại liền “Pay…”*

 

Liền “Pay…”, ai nỡ buông tay nữa

Kìa em, bè bạn xuống chợ tình

Anh liêu xiêu bước mà như tựa

Vào bờ vai trắng – đóa ban xinh

                                     02/9/2011

 

 

Lên đỉnh Quan Hà

                  Tặng Tử Vân

Hoài cổ anh tìm về chốn cũ

Ngàn lau tiên cảnh vuốt ve chiều

Sóng vẫn trải lòng nơi bến nhớ

Như sợi tơ tình buộc thương yêu

 

Mây trắng lan vào cõi hư không

Hoàng hôn buông nhẹ, buốt tê lòng

Bông lau còn trắng. Em còn tím

Mộng ước chung tình buổi thu trong

 

Buổi ấy còn thu và còn xuân

Xuân cho sắc má ửng hương nồng

Thu cho mắt biếc choàng mây biếc

Hai đứa giữa trời - biển mênh mông

 

Lên trời: hết núi tới đỉnh sương

Xuống biển: hết đất sẽ hết đường

Chim ở trong lồng mà chim hót

Cá nằm trong lưới ngỡ đại dương

 

Buổi ấy thật vui, giờ đã xa

Cuộc đời thoáng chốc tới phôi pha

Nhớ lau anh lội về quá khứ

Tóc trắng như mây đỉnh quan hà.

 

Gửi Bùi Giáng

Trước Người, có ai như Người không?

Sau Người, còn ai như Người không?

Buồn như Rêu và xanh như Cỏ

Cỏ trong thơ và cỏ trên đồng.

 

Thi nhân hỡi! Khi tan cùng sương khói

Khi tận cùng say đắm niềm yêu

Người có ngoái đàn dê trên đồng nội

Mà thơ rơi tím những mảnh quê chiều?

 

Đời bảo điên! Ừ thì "điên" một chút

Đời bảo si! "Si" để được yêu đời

Một chân bước về bên kia: vĩnh cửu

Một chân còn nán lại cõi trần chơi.

  

Viếng Nhà thơ Chim trắng

Chao ơi mới đó, giờ xa ngái

Xa đến… cánh cò cũng ngại bay

Đám mây ướt sũng từ ngàn bắc

Vô đến trong kia đã khô gầy

 

Một cánh chim trời từng lộng gió

Bây giờ nhường lại để… thơ bay

                                 30/9/2011

 

Đường vô Tam Cốc

Hai lần chồn ngựa đá

Nghìn thuở vững âu vàng

Đường thuyền vô Tam Cốc

Thơ miết dòng Ngô Giang


Nghi môn vào Tràng An

Ghé Thái Vi, cõi Phật

Lồng lộng bóng Thái Tông

Bá quan chầu đủ mặt


Lão Khổng lồ xây núi

Gánh nặng quá đứt quai

Quẳng hòn Văn, hòn Võ

Trèo lên núi lão ngồi


Ôi người vợ ngóng chồng

Bao đêm không ngủ được

Đường nào lên, nàng ơi

Đỉnh đợi chờ chót vót?

Đất nước nhiều chinh chiến

Bao nhiêu là khăn tang

Để ngàn lau tiên cảnh

Gió chưa ngơi bàng hoàng


Sóng gặm mòn vách đá

Núi chọc thủng thời gian

Tam Mẫu toạ Linh Cốc

Chim rợp trời Thung Nham


Vòm hang rồi vòm hang...

Rợn người xuyên thuỷ động

Nhũ đá hoá đại bàng

Nắng trườn theo bóng sóng


Biển cạn thành Non Nước

Đá mòn tạc cổ nhân

Bao thăng trầm, xương máu

Để đất này muôn năm*.

 

                                   01/2011

---------- 

Chữ in nghiêng: Ý thơ Trần Nhân Tông

    

Mùa hoa cà phê

Hình như những hạt sương đêm

Đậu vào hoa lá cho mềm đất khan

Hình như mây núi hương ngàn

Lắng chìm vào giấc nồng nàn cao nguyên

 

Ngẩn ngơ trước cõi lâm tuyền

Anh tan vào nắng khôi nguyên bồng bềnh

Tan vào mây trắng trời xanh

Hình như đôi mắt của anh dại khờ

Để hoa trắng đến ngẩn ngơ

Và tình anh suèt bãi bờ dâng hương

 

Hương rừng em toả bốn phương

Giọt thơm, giọt đắng, giọt thương, giọt chờ

Ban Mê! Cõi thực? Cõi mơ?

Cho anh say tận bến bờ ... si mê

 

Dùng dằng nửa ở nửa về

Ngàn hoa trắng rẫy cà phê, hút hồn.

                                           

                                Tam Đảo, Thu 2011

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Nhân vật  

Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh đồng chí Lê Ðức Thọ

VanVN.Net - Ðồng chí Lê Ðức Thọ, nhà lãnh đạo tiền bối của Ðảng, "một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đã có nhiều cống hiến cho sự nghiệp cách mạng", đặc biệt ...

Thư giãn  

Truyện ngắn: "Vừa bắt đầu đã kết thúc"

VanVn.Net - Chàng hẹn nàng đến, thần sắc của chàng tỏ ra nghiêm trang, chàng nói: “Anh có việc quan trọng muốn nói với em!” Nàng rất hiểu chàng, nhìn thấy vẻ mặt chàng nghiêm túc, nàng bỗng bật cười, nàng ...

Nhà văn đọc sách  

Những cuộc dịch chuyển trong “Ngày linh hương nở sáng”

VanVn.Net - Bắt đầu hành trình một ngày mới, vạn vật phải chịu đựng những cơn đau thoát xác để đón nhận/khai mở những nguồn ánh sáng mới. Con đường ấy là con đường chung mà tất thảy vạn vật phải ...