Chế Lan Viên: Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước/ Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà/ Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc/ Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa (…) Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây/ Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?/ Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ/ Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Gửi thư    Bản in

Tiểu thuyết: "Dòng sông chết" của Thiên Sơn

21-06-2011 10:26:10 AM

VanVN.Net - Trong một cảm giác cô đơn vây tỏa, không thể chia sẻ cùng ai, nhân vật chính – nhà hóa học trẻ tuổi tự nói với mình, tự kể lại những gì mình đã trải nghiệm, đã suy nghĩ trở thành người lật tẩy một trong những điều tệ hại nhất của thời đại chúng ta. Đó là sự không kiểm soát được mặt trái của cuộc cách mạng hoá học và công cuộc công nghiệp hoá đối với cuộc sống con người. Thành tựu của cuộc cách mạng ấy đã bị sử dụng vào những mục đích vụ lợi và vô trách nhiệm. Chính vì vậy đã đẩy con người vào tình trạng bị nhiễm độc nguồn thức ăn và môi trường sống. Đó chính là những điều nhà văn trẻ Thiên Sơn muốn nói trong “Dòng sông chết„ – cuốn sách được trao giải C trong cuộc thi tiểu thuyết 2006 – 2010 của Hội Nhà văn Việt Nam. VanVN.Net trân trọng giới thiệu chương thứ nhất cùng bạn đọc... 

Một

 

Nếu vẽ sơ đồ cuộc đời mình thì có thể hình dung nó tựa như  một cái cây. Có gốc rễ. Có thân cành. Hoa lá. Ngọn. Và trời bên trên nó ra sao? Xung quanh nó thế nào? Đất mà nó cắm vào để sống nữa… Chỉ có thế thôi. Đơn giản vô cùng. Vậy mà bao nhiêu điều mãi mãi dường như không thể nói ra được. Mình đã đau đớn, đã vật vã, đã gánh cái gánh đời nặng trĩu không biết san sẻ cùng ai.

 

Dạo đó mình còn bé lắm. Đêm đêm mình tỉnh giấc. Mắt mình mở căng nhìn vào bóng tối. Rồi bỗng trước mắt mình dần hiện lên những chấm sáng. Lúc đầu những chấm sáng đứng im, xa lắc tựa những vì sao lặng lẽ trong trời đêm. Lúc sau thì những chấm sáng bắt đầu xoay tròn. Chúng nở xoè ra như những đoá hoa vàng ươm tươi rói. Chúng sà thấp xuống… Mình như ngửi thấy mùi hương. Mình lạc vào thế giới cổ tích. Những nàng tiên tóc dài chấm gót đi trên những cánh hoa. Tiếng hát của họ trong veo như lay động cả bầu trời. Bỗng những con rồng lửa từ đâu xuất hiện chúng đuổi nhau, tạo thành những tia chói gắt xé ngang cảnh yên bình và những tiếng gầm rú như tiếng sấm.

Sau này mình tìm cách tự lý giải tại sao trong một lần thức giấc, mình lại gặp cái ảo giác kỳ lạ ấy. Đúng là những câu chuyện cổ tích, những huyền thoại đầy huyền bí mà ông nội vẫn thường kể đã ám ảnh ghê gớm vào tâm trí của mình. Bao nhiêu lần ông nội cõng mình trên lưng từ trong làng, qua một khu rừng chắn sóng nhỏ ra biển. Rồi vừa đi dọc biển ông vừa kể bao nhiêu là chuyện. Từ chuyện nàng công chúa bị con đại bàng cắp xuống hang sâu, hay chuyện nàng công chúa ngồi sau lưng ngựa của cha chạy giặc mà vẫn rắc sợi lông ngỗng làm dấu cho chồng đuổi theo, không hề nghĩ chồng mình là một tên tráo trở, phản bội để đến nỗi cả hai cha con cùng đường đành phải chết. Rồi chuyện những vị thần đánh nhau trong thế giới vô hình. Chuyện Tôn Ngộ Không đại náo Thiên cung… Vừa nghe chuyện ông kể, mình vừa nhìn trời, nhìn biển. Trời cao mênh mông. Mây trắng như dải lụa vắt ngang trời. Biển bao la, sóng lớp lớp dội vào bờ, điệp trùng bất tận. Mình hay đặt câu hỏi, phía tận cùng của biển là gì? Có phải bên kia của biển cũng lại có những bờ cắt trắng, những làng mạc ẩn chìm sau những rừng cây và những ông già cứ sáng sáng, chiều chiều lại cõng cháu đi trên cát kể những câu chuyện ngày xửa ngày xưa… Mình cũng đã mơ đến một ngày kia, khi mình lớn lên rồi, mình sẽ đi đến tận cùng của đại dương, sẽ tìm hiểu những vùng đất mới.

Và lạ lùng sao, trong một đêm vô cùng tĩnh lặng, mình tỉnh dậy, bỗng nghe tiếng nức nở, nghẹn ngào của mẹ. Mình lùa tay vào tóc mẹ ươn ướt. Mình muốn hỏi: “Mẹ ơi sao mẹ lại khóc?” Nhưng không hiểu sao mình đành im lặng. Có một nỗi đớn đau gì mà mẹ muốn che dấu tất cả mọi người... Mình thương mẹ lắm... Giá mình có thể làm được chút gì vơi bớt đi nỗi buồn của mẹ thay vì cứ nằm im thin thít như thế này… Có một hôm mẹ khóc to thành tiếng, quằn quại, vật vã trên giường. Lúc ấy mình nhìn ra cửa sổ hé mở, bên ngoài trời hưng hửng sáng. Bỗng mình nghe thấy tiếng bà nội:

- Câm ngay đi.

  Mẹ mình vẫn khóc. Những tiếng nấc cứ bật ra từ cổ họng như tiếng của một cái gì đứt gãy. Bà nội từ giường bên bật dậy như một hung thần. Mình vẫn còn nhớ rất rõ, gương mặt của bà như méo đi, các thớ thịt co giật. Đôi mắt như có ánh lửa quắc lên trong cái vùng lờ mờ tối.

- Đồ chó cái. Bà còn sống ngày nào thì còn căm, còn hận…

Hàng ngày, cứ mờ sáng mẹ lại dậy chuẩn bị bữa sáng cho cả nhà rồi đạp xe đi làm ở công ty đá cho đến tối mịt mới về. Hồi ấy mình không biết công việc của mẹ vất vả đến mức nào. Chỉ biết, có hôm mẹ về, mặt mũi hốc hác, bơ phờ. Mẹ xuống xe, bước xiêu vẹo vào nhà rồi khuỵu xuống. Máu từ mũi chảy ra thành dòng ướt một bên cằm và ngực. Mình chạy quáng quàng xung quanh, không biết làm gì. Lúc ấy ông nội ở đâu vừa về. Ông chạy vào nhà bế mẹ lên giường. Ông sai mình ra vườn ngắt mấy lá khoai lang vào nút mũi cho mẹ.

Lúc ấy mình bỗng nghe thấy tiếng tru tréo của bà nội từ trước cửa.

- Ối trời ơi, ban ngày ban mặt… Đồ loạn luân. Đồ khốn nạn…

Mình ngắt xong mấy lá khoai lang, chạy vào đưa cho ông cuốn lại nút lên hai lỗ mũi của mẹ lúc ấy nhuộm đỏ máu. Vừa lo sợ, mình vừa ngơ ngác không hiểu bà nội nói gì. Bên ngoài hàng xóm có người ngấp nghé ở hàng rào, có người xì xào với nhau nhưng chẳng có ai bước vào. Bà nội vẫn cứ lải nhải:

- Đồ loạn luân… ối làng xóm ôi… sang mà xem cảnh nhà tôi… Thật là vô phúc…

Bà nội xông vào, dùng những ngón tay xoè ra tựa những móng vuốt của loài hổ cái sắc nhọn cào lên khắp người ông, giật xé rách toác tà áo ngực. ông nội gạt bà ngã sấp sang một bên. Một người hàng xóm nhảy vào kéo bà ra xa. Bà vẫn vùng vẫy đòi thoát ra, miệng vẫn kêu la om sòm.

Bỗng mẹ cong người nhổ xuống nền nhà một bụm máu nhỏ. Ông nội đỡ mẹ nằm lại xuống giường, rồi chạy vội ra ngõ. Ông nói với mọi người:

- Ai có cáng, giúp cho, con dâu nhà tôi bị thổ huyết, phải lên trạm xá ngay…

 Có vài người chạy vào nhà giúp ông nội. Mấy phút sau, hai thanh niên lực lưỡng cáng mẹ trên một chiếc võng dù chạy vội lên trạm xá. Y sĩ khám xong, yêu cầu nằm bất động và tiêm thuốc. Khoảng nửa tiếng sau mẹ không còn bị chảy máu nữa. Bà nằm thiêm thiếp nửa thức, nửa ngủ. Mình ngồi bên mẹ mân mê bàn tay. Bàn tay khô xạm và chai ráp những chai là chai. Bàn tay cầm búa đập từ ngày này sang ngày khác… Lúc sau mẹ tỉnh dậy, mẹ nhìn mình với ánh mắt lờ đờ mỏi mệt. Đối mắt mẹ lõm sâu vào, như thể từ ở một nơi nào rất xa, mẹ cất tiếng nhỏ nhẹ, chậm chạp hỏi mình:

- Con ăn cơm chưa?

 Mình vui sướng, thốt lên:

- Mẹ! Mẹ đã tỉnh rồi… mẹ… mẹ…

 Nhưng mẹ lại hỏi:

- Con ăn cơm chưa?

 Mình thưa với mẹ:

- Con ăn muộn chút có sao đâu mẹ. Mẹ tỉnh lại, con rất vui.

- Con gái của mẹ ngoan quá.

Mình lại cầm tay mẹ

- Mẹ đi làm mệt lắm hở mẹ?

 Mẹ gượng cười:

- Không sao đâu, mẹ cũng quen rồi.

Mấy hôm sau mẹ được đưa về nhà. Hàng xóm có nhiều người đưa nhau sang hỏi thăm. Ông nội trầm lặng hơn mọi ngày còn bà nội thì cứ nói liên hồi: “Ác giả ác báo… Có gì đâu mà phải hỏi thăm. Nó có chết, tội nó cũng không rửa được.” Mấy người hàng xóm nhìn nhau. Rồi họ chào mẹ và bà ra về. Mình thấy mẹ quay vào tường, lại khóc.

Bà nội ngồi trong nhà xỉa xói đủ điều tệ mạt rồi lại ra vườn. Lúc bà nhổ cả mấy khóm cây, lúc cầm thanh củi phang mấy con gà cục tác. Mắt bà đỏ lòm. Tóc bà quăn tít, rối bời. Và lạ nữa, từ  hôm đó, cứ chập tối là bà đi khắp cả làng, miệng lải nhải những lời không ai hiểu gì. Có khi bà đứng trước một nền gạch hoang phế trên một mảnh đất hoang khá rộng nói: “Mẹ tiên sư chúng nó. Nhà tôi đây mà nó phá… Nếu có người phá nhà chúng nó thì chúng nó có nhảy chồm lên mà cắn xé, mà chửi cha cái đứa đã phá nhà của chúng nó hay không?” Rồi bà tru tréo: “Gieo nhân ác thì phải nhận quả ác.” Trên đường, thỉnh thoảng bà lại rẽ vào nhà một người nào đó. Một lần bà rẽ vào nhà ông Khắt. Bà chỉ vào mặt chủ nhà nói: “Thần không tha cho mày đâu. Tội mày đến mấy đời nữa còn chưa đền hết”. Ông Khắt nghe nói xong, bỗng thấy như có ai bóp nghẹt cổ họng, trợn trừng mắt, rồi ngã vật xuống nền nhà. Người ta đưa ông đến viện, lưỡi ông đã bị đen lại, không nói được. Từ đó về sau, ông Khắt bị liệt một bên người, phải nằm bất động. Nghe nói cho đến tận khi qua đời, ông Khắt vẫn phải nằm trên một manh chiếu cũ, trong một gian nhà tranh bé nhỏ, sặc mùi phân người hôi thối.

Khoảng một tuần sau, dù còn phải ăn cháo nhưng mẹ vẫn cố đạp xe đi làm. Mình nằng nặc đòi đi theo. Mẹ nói mẹ phải làm việc. Công việc bận rộn không có ai chơi với con. Mình nói với mẹ: “Con tự chơi được mà.” Thế rồi sau mấy phút lưỡng lự  mẹ quyết định cho mình đi theo. Đến nơi, mẹ gửi mình ở chỗ mấy cô cấp dưỡng rồi cầm búa ra chỗ đập đá. Mình đi lang thang ngắm phong cảnh của khu công trường khai thác đá. Đó là một dãy núi đá vôi cao chót vót. Một phần ngọn núi đã bị khoét từng mảng, từng mảng nham nhở. Tiếng máy chạy ì ầm. Tiếng búa đập đá chan chát. Bụi mù cả một góc không gian. Càng trưa, trời càng nắng, bụi càng mù trời. Có những tốp người oằn vai khiêng đá, những người khác cởi trần chỉ mặc chiếc quần xà lỏn cầm búa nâng quá đầu nện chan chát. Bột đá bắn ra xung quanh. Mồ hôi nhễ nhại. Có người đang ghánh đá, loạng choạng bước không vững, ngã vập xuống. Mặt va vào cạnh đá, tứa máu. Lại có người giơ búa lên mà cơn ho sù sụ ập đến đành buông búa ôm lấy ngực. Khi được đưa vào chỗ nghỉ, y tá sau khi cho thuốc và dặn người ốm nằm nghỉ thì lắc đầu, nói trống không: “Bụi quá.”

Đợi lúc không ai để ý, mình chạy tọt ra sau một ngọn núi, lần theo khe đá hẹp đi sâu vào. Bên trong có một bàn thờ do ai đó lập nên, một bát hương phủ bụi và những chân hương lâu ngày đã mốc… Càng đi sâu càng lạnh, ẩm và tối. Nhiều muỗi và mùi khăm khẳm của lá mục. Cả tiếng những giọt nước tý tách từ trên cao xuống. Bên dưới lại có thêm một ngách nhỏ nữa… Mình cứ liên tưởng đây là hang mà con đại bàng đã cắp nàng công chúa xuống. Mình cảm thấy sợ, người run cả lên.

- Ngân ơi… Ngân…

Tiếng mẹ thất thanh từ bên ngoài. Mình quay phắt người, vội thưa:

- Con đây!

Mẹ tìm đến cửa hang, vội vã lần mò trong bóng tối vào trong. Mẹ sững sờ giây lát trước khi vồ lấy mình rồi riết chặt vào lòng.

- Con mạo hiểm quá.

Mẹ chỉ nói thế rồi lại rơm rớm nước mắt. Mình ân hận quá nên nói với mẹ:

- Con xin lỗi mẹ…

Mẹ đưa mình lại chỗ nhà bếp, dặn mình ngồi ở đó. Mình vâng lời mẹ, giúp mấy cô cấp dưỡng nhặt rau muống, nhưng không bỏ qua một điều gì từ ngoài công trường. Mẹ mình hôm ấy còn yếu nên chỉ ngồi đập đá một chỗ. Đến nửa buổi thì được vào nghỉ. Đến bữa cơm trưa, mọi người vây quanh mấy mâm cơm. Nói là cơm nhưng không có cơm trắng, toàn độn ngô và sắn. Trên mấy đĩa thức ăn chỉ có một ít cá biển và rau. Chỉ vậy thôi mà mọi người ăn ngon lành. Vừa ăn vừa đùa vui. Rồi sau đó cánh đàn ông túm tụm lại bên một người trạc năm mươi tuổi, gầy hóp má, vầng trán cao, da đen cháy nhưng đôi mắt sáng. Người ấy có giọng nói ấm trầm.

- Bác Hữu làm thơ tặng cô Tình đi.

Một người đàn ông hóm hỉnh gợi chuyện. Người đàn ông tên Hữu chỉ cười hiền. Một giọng khác:

- Bác làm đi chứ, kẻo cô Tình đợi lâu mất hứng rồi kìa.

Cả đám phụ nữ đang túm tụm bên cạnh cũng ùa sang. Một giọng thánh thót:

- Bác là nhà thơ nổi tiếng mà không làm thơ tặng cô Tình được thì tài của Bác chúng em không công nhận.

 Người đàn ông cũng chỉ cười trừ, rồi ông nói:

- Anh chị em đi nghỉ trưa, còn ai không nghỉ, tôi ngâm Kiều cho mà nghe vậy.

Cả đám người đồng thanh:

- Đúng đấy.

Từ đó, người đàn ông tên Hữu cất giọng trầm vô cùng truyền cảm. Giọng ông ngân nga, uyển chuyển, luyến láy như có ma lực cuốn hút lấy lòng người. Cả một đám người ngồi im, gần như bất động, có người rưng rưng lệ khi nghe những câu thơ Kiều. Người đàn ông tên Hữu như kẻ lên đồng cứ thao thao bất tuyệt. Rồi bỗng ông giật mình, như vừa tỉnh dậy sau một cơn mê man, ông hỏi:

- Đã đến giờ làm chưa?

 Cũng lúc ấy, tiếng kẻng cất lên. Mọi người lại lầm lũi trở lại công trường. Người lái máy ủi, máy xúc, người điều khiển máy nghiền, người khiêng, người đập đá dưới cái nắng gắt đỏ, cháy bỏng và bụi đá mù trời.

Mấy ngày liền mình đòi mẹ kể về Người đàn ông tên Hữu và Cô Tình. Mẹ toàn đánh trống lảng. Mình giận mẹ. Mình bảo mình chỉ muốn biết tại sao mọi người lại nhắc đến cô Tình và ông Hữu nhiều thế. Cuối cùng mẹ nói:

- Con còn nhỏ, biết những chuyện riêng của người khác mà làm gì?

Mình lại càng không hiểu:

- Có gì mà phải giấu?

Mình bướng bỉnh nói với mẹ.

- Nếu mẹ không kể cho con, con sẽ không nói chuyện với mẹ cho đến lúc mẹ kể mới thôi.

Mình im lặng gần cả ngày. Trong nhà bình thường chỉ có hai mẹ con hay nói chuyện với nhau, thế mà bây giờ lâm vào tình thế này thì thật là khó chịu. Cuối cùng mẹ đồng ý sẽ kể chuyện cho mình.

Theo lời mẹ kể, ông Hữu đúng là một nhà thơ. Trước đây, khi ông Hữu mới mười mấy tuổi, bố mẹ hỏi cho ông một người vợ hơn ông những năm tuổi. Không hiểu sao, cứ nhìn thấy mặt vợ là ông lại lẩn đi. Cuối cùng, hai gia đình phải thoả thuận cho vợ ông về lại nhà mẹ đẻ. Lớn lên ông đem lòng yêu một cô gái trẻ. Đúng là ý hợp tâm đầu. Nhưng chưa kịp cưới nhau thì ông vào bộ đội. Một hôm nghe tin cô người yêu bị bệnh qua đời, quá đau xót, ông đã làm một bài thơ tình đầy bi luỵ tặng người đã khuất. Không ngờ, sau đó bài thơ được một nhạc sỹ của chính quyền nguỵ phổ nhạc. Bài hát buồn đến nỗi hễ ai nghe thấy cũng đều chảy nước mắt, nhớ vợ thương con nên có người đã bỏ trốn. Vậy là ông Hữu bị cho là ăn bả của bọn tâm lý chiến. Có người còn kết tội cho ông là phản động. Ông chỉ nói:

- Tôi làm thơ từ tình thật của tôi. Bài thơ này tặng cho một người bạn gái đã chết...

Không ai tin, thế là ông bị kỷ luật…

 Sau đó ông lếch thếch mang ba lô về đến đầu làng thì gặp một ni cô cúi mặt bước qua bên cạnh. Dáng vẻ của ni co có gì quen thuộc… Ông quay nhìn và nhận ra đó là người vợ cũ. Ông Hữu quay gót bước theo ni cô nhưng ni cô không nhìn lại. Ông gọi tên ni cô không thưa, chỉ chắp tay, khép mắt, nói “ Mô phật”.

Cuối cùng thì ông lủi thủi quay lại, mặt cúi gằm, gieo từng bước nặng nề trên con đường mòn dẫn vào làng. Chiều muộn hôm ấy, ông tìm ra mộ người yêu, lúc đó đã là một nấm cỏ hoang. Ông ngồi bên nấm mộ im lặng cho đến khi bóng tối phủ xuống… mãi tận khuya, sương đêm ướt đẫm mái đầu…

Một thời gian sau ông gia nhập công ty khai thác đá. Từ đó ông sống như một người bình thường.

Mình nghe mẹ kể mà thấy kinh hoàng. Đối với mình, nhà thơ phải là một cái gì cao quý lắm và phải được đối xử khác với những người bình thường. Từ khi còn bú mẹ mình đã mê nghe thơ. Mình hay mường tượng nhà thơ là một con người không có thực từ một cõi thanh khiết bí ẩn nào đó trên nền trời đã xuống với thế gian, sáng tác ra những bài thơ rồi lại vụt biến vào mênh mông xa lắc của vũ trụ. Nhà thơ phải là ai đó gần giống các thiên thần… Không ngờ… Bây giờ mình lại thấy một nhà thơ giữa công trường đập đá, lam lũ, mệt nhọc, héo hắt…

Còn cô Tình. Theo lời mẹ kể, cũng như nhiều cô đang làm cùng cơ quan mà thôi. Cô là thanh niên xung phong. Hồi còn chiến tranh, cô đã từng có lần đứng làm cọc tiêu sống dưới trời bom đạn không tiếc thân mình, cốt sao hướng dẫn những chiếc xe đi đúng đường vượt qua bom đạn. Cô cũng đã từng tham gia khiêng những trái bom nổ chậm ra khỏi con đường nơi có những đoàn xe cài lá nguỵ trang đang nối tiếp nhau. Và tham gia làm đường sau mỗi khi đạn xé nát con đường huyết mạch vào Nam của quân ta… Sau chiến tranh, cô Tình quá tuổi, bị ốm đau lại nghèo khó và không lấy được chồng. Cô Tình và những người thanh niên xung phong cùng cảnh nghộ đã được nhận vào làm để có công việc và thu nhập ổn định đời sống. Theo mẹ nói, ở cơ quan có gần năm mươi người quá lứa lỡ thì như cô Tình.

 

Mình không ngờ bệnh bà nội lại mỗi ngày một nặng. Những đêm trăng sáng, bà xoả mái tóc dài rối bời ra sau lưng chạy nhông nhông trên những con đường ngoằn nghoèo trong xóm. Thỉnh thoảng bà dừng lại đưa tay kéo những cành tre chìa ra hoặc leo lên những cây dừa có tàu khô xoã xuống loà xoà. 

 Có người nói bà bị điên, nhưng có người lại nói có ma nhập hồn vào bà. Hồi đó, hễ nói đến chuyện ma thì lập tức bị cho là duy tâm. Việc cầu cúng phải thật bí mật kẻo lại bị công an xã nhắc nhở.

 Mấy năm trước đó, ông chủ tịch xã sau khi dự lớp tập huấn trên huyện về còn định ra lệnh cấm bà con cúng đơm, lễ bái. Ông ấy nói chết là hết, con người chẳng qua cũng là một loài động vật cao cấp mà thôi, làm gì có linh hồn. Nhưng ý tưởng cấm cúng đơm của ông ấy bị cả bố mẹ ông ta phản đối. Bà mẹ thì cứ rên rỉ khóc: “ Mẹ lạy con, con đừng làm điều bất hiếu, bất nhân nữa. Phong tục của tổ tiên ông bà để lại hàng ngàn năm, đừng có dại dột mà phá bỏ đi”. Còn ông bố thì chỉ thẳng vào mặt con trai: “Tội mày như núi. Mày là loài chó lợn, không phải là người”. Rồi ông bỏ nhà ra biển. Nghe nói ông lao thẳng ra xa, lặn một hơi và không thấy ông đâu nữa. Mãi ba ngày sau mới thấy một tiếng sấm và xác ông nổi lên, dạt vào một góc chân núi, nơi ít có người đặt chân đến. Da thịt ông đã rữa ra, bị cá rỉa mất một phần. Sau chuyện ông bố tự tử để phản đối việc cấm thờ cúng, chủ tịch xã mới từ bỏ ý định của mình.

Mẹ mình bàn với ông nội, sang làng bên nhờ một thầy cúng. Ông thầy cúng này xưa nay ai nhờ cũng giúp, kể cả khi sáng, khi khuya. Nhưng lần này ông nội đến, ông ta mặt lạnh như chì. Ông nội nói thế nào ông ấy cũng không cạy răng. “Ông làm ơn làm phúc giúp đỡ gia đình tôi, kêu với bề trên… Tôi biết tội của tôi lớn lắm. Nhưng tôi làm thì tôi xin chịu, bà nhà tôi nào có tội tình gì mà phải khổ… Mong thầy giúp cho”. Cho đến tận nửa đêm thầy cúng mới ra hiệu ông nội hãy về cho ông ta ngủ. Nhưng ông nội vẫn cứ đứng như trời trồng. Khi nhà thầy cúng tắt đèn, đi nằm hết thì ông nội mới loạng choạng trở về nhà mình. Lễ vật mẹ đã bày sẵn ở gian chính trong nhà. Ông thắp hương khấn vái và khóc nức nở: “ Xin thần linh tha thứ cho tội lỗi của con. Con đã nghe lời người ta mà làm điều bất nhân, thất đức, để nỗi gia đình con phải gánh chịu. Xin thần linh có trừng trị thì hãy trừng trị con đây, còn vợ con thì có tội tình gì đâu…”

Ông nội cứ quỳ như thế, lầm rầm khấn suốt đêm. Khi ông đứng dậy thì bên ngoài mặt trời như một con mắt đỏ đã lên. Nhưng ngày lại ngày trôi đi, bệnh bà nội không hề suy giảm. Việc cầu cúng lại diễn ra thêm hai lần nữa. Đến lần thứ ba, mẹ nói với ông nội: “Bềnh tình của bà vẫn chưa khỏi, hay là bố cúng không đúng.” Rồi mẹ lại đi nhờ thầy cúng giúp đỡ. Mẹ đi gần một tiếng thì về rơm rớm nước mắt. Thầy cúng vẫn không chấp nhận lời thỉnh cầu của mẹ và ông nội. Thầy cúng nói với mẹ: “ Gia đình bà đã mắc án đường âm rồi. Còn lâu mới xoá được”.

Khi mình đến tuổi đi học vỡ lòng thì ông không cõng mình đi chơi nữa. Ông dạy cho mình từng nét chữ. Biết mình thích thơ, ông dạy cho mình học thuộc những bài thơ hay thời Đường, Tống. Thời gian còn lại, ông giúp mẹ những việc vặt trong nhà hoặc sang nhà mấy ông bạn già thời kháng chiến. Năm ấy ông đã ngoài sáu mươi tuổi, sống tằn tiện bằng khoản lương hưu ít ỏi.

Thỉnh thoảng mình lại xin mẹ đến công ty khai thác đá. Từ nhà đến công ty đá có nhiều đoạn ngoằn nghoèo, lô xô. Có những viên đá sắc cạnh nằm ngay giữa đường, có chỗ lại lõm xuống thành hố đọng nước. Hai bên đường có hàng trăm lò hun vôi thi nhau toả khói. Khói kết lại thành một bức màn trắng trùm lấp không gian, mùi khét lẹt thốc vào tận phổi. Những căn nhà thưa thớt hai bên đường như lẫn vào một màn sương mờ ảo.Những đám người gầy còm cũng bị cái không gian trắng mờ nuốt chửng.

Hôm ấy mình tiến đến bên ông Hữu trong giờ giải lao, mình hỏi:

- Ông ơi, ông là nhà thơ thật hở ông?

 Người đàn ông cười.

- Ngày xưa ông cũng theo mộng văn chương. Nhưng bây giờ, ông chỉ là một ông gìa đập đá thôi cháu ạ. Như vậy cũng vui.

 Mình lại hỏi:

- Làm thơ và đập đá nghề nào mệt hơn hả ông?

Ông già xoa đầu mình.

-  Cháu hỏi hay thật. Làm thơ mệt hơn chứ.

Ông lại cười.

- Nhưng nghề nào ông thích hơn?

Ông già đang đạp đá bỗng khựng tay lại. Mình không hỏi gì, cũng chẳng suy nghĩ thêm gì từ những lời của ông Hữu.

 

Khi đã lớn, mình có tìm hiểu về quãng đời sau khi ông bị kỷ luật. Ngày ấy ông Hữu trở về quê khi làng vừa qua cuộc đấu tố cải cách ruộng đất. Dù đã qua cao trào, nhưng không khí đấu tranh vẫn hừng hực. Hàng xóm biết ông là người đã từng đi đánh giặc cứu nước, là người có tài văn thơ, nhưng nghe nói ông bị kỷ luật thì vì sợ cái án chính trị mà không ai dám đến gần. Hàng ngày ông sống lùi lũi như một cái bóng. Đi đến đâu cũng bị người ta xa lánh. Mấy năm sau ông lấy vợ. Một cô thôn nữ vì mê tài thơ của ông mà chấp nhận lấy ông dù cha mẹ và bạn bè ngăn cản. Ngày cưới của hai người chỉ có mấy người trong họ và một ít bạn bè thân đưa cô dâu về nhà chồng. Tất cả không quá mươi người. Cô dâu len lén che mặt sau vành nón đi trong đám người thân vây xung quanh. Căn nhà của đôi vợ chồng trẻ làm bằng tre, lợp tranh. Vậy mà từ đó, ông bà khai hoang, cày cấy nuôi nhau. Bà đẻ cho ông một đoàn con. Cả hai vợ chồng nuôi hy vọng trong số các con của họ sau này lớn lên, sẽ có người thông minh làm nên nghiệp lớn. Mãi sau này, khi công ty đá được lập nên, ông mới được thu nhận đi làm với tư cách là công nhân.

Mình cũng tìm hiểu thêm về cô Tình. Cô thì chỉ hơn tuổi mẹ mình một ít. Khi hết chiến tranh, cô về. Ngoài ba mươi tuổi, bố mẹ cô làm riêng cho cô một gian nhà ở riêng. Thế là một mình cô làm thành một gia đình. Ngày giỗ chạp, lễ tết, cô cứ thui thủi một mình. Cô buồn quá. Nghĩ mình không nên ở quê làm tủi hổ cả cho bố mẹ. Thế là khi có chủ trương thành lập công ty đá, cô là người đầu tiên gia nhập và lên khu tập thể ở. Mấy chục chị em không chồng, đùm bọc nhau, thông hiểu, an ủi nhau cũng thấy vui vui. Mấy năm sau thì có một số cô lấy được chồng. Chồng của họ, hầu hết là những người chết vợ hoặc thương binh nặng. Thế là khu tập thể có bóng dáng đàn ông và những chiếc xe lăn. Rồi dần dần trong khu tập thể có người chửa, tiếng cười nói thỉnh thoảng lại vang lên.

 Riêng cô Tình, một người can trường, khoẻ mạnh nhưng số lại cao. Mấy người đến với cô, tưởng sắp cưới đến nơi, bỗng lại trắc trở. Cô Tình buồn. Cuối cùng cô đã quyết định xin một đứa trẻ về nuôi. Dù vậy, cô vẫn thấy buồn và hay cáu gắt với mọi người. Nhiều hôm cô than thở với mẹ về phận gái không chồng không con như cây không hoa. Công việc càng vất vả, cô Tình càng héo quắt lại, gân guốc, đen xạm trông na ná như đàn ông.

 

Không hiểu sao bố ít về đến thế. Trong ký ức tuổi thơ của mình, hình ảnh bố thật mờ nhạt. Nhưng dù sao thì mình vẫn có bố. Những lúc khó khăn nhất bố vẫn có mặt. Chẳng hạn như khi sửa nhà lần đầu mà mình nhớ được. Bố về bằng chiếc xe đạp cũ. Bố bảo mượn của người bạn nhà gần bến xe. Chiếc xe đạp Phượng hoàng ấy được dùng để thồ nguyên vật liệu làm nhà. Lúc rỗi, bố còn chở mình đi loanh quanh. Nhưng mình không thấy vui. Mình giận bố. Sao bố cứ ở một mình trên tỉnh mà để cho mẹ và ông bà vất vả thế. Bố không giải thích gì, mấy ngày sau, khi nhà sắp xong thì bố đi.

Mấy tháng sau thì bà nội bị phát bệnh. Suốt ngày bà la hét lảm nhảm và chửi mẹ. Ông nội viết thư cho bố về, định cùng nhau đưa bà đi bệnh viện. Bố về vào một buổi chiều muộn. Hôm ấy ông vắng nhà. Không hiểu ông đi đâu đã mấy ngày. Còn mẹ đi làm ở công ty đá cũng chưa về. Chỉ có mình đang ngồi trông bà. Bà hết đi ra lại đi vào, lúc nhổ cỏ ngoài vườn, lại nói vài câu vô nghĩa. Thấy bố về, bà chạy đến ôm chầm lấy bố và oà lên nức nở. Bố hỏi bà có chuyện gì thì bà nói:

- Thằng bố mày với con vợ mày… Chúng nó đang muốn giết mẹ đây.

 Rồi bà run lẩy bẩy, rúm ró, trông thật đau đớn, thật tội nghiệp. Bố nghe xong lời của bà, mặt cúi gằm xuống. Rồi không nói một lời, lùi lũi kéo bà vào nhà. Bà vẫn bù lu boà loa nói những chuyện gì nữa ấy, đến nỗi bố phải quát :

- Im đi.

Không đợi mọi người về, bố thu dọn đồ đạc và bảo bà:

-  Mẹ đi lên ở với con.

Nhưng lúc ấy bà lại co rúm lại, giẫy nẩy:

-  Mẹ không đi. Để ở nhà cho chúng nó muốn làm gì thì làm à? Mẹ không tha cho chúng nó… Trời ơi là trời…

 Bà lê la ra đất khóc. Hình như bố cũng khóc. Nhưng chỉ một lát, bố nghiến răng lại, gạt nước mắt bước ra ngoài. Bố đi được vài bước thì nhìn thấy mẹ về. Mẹ phanh chiếc xe đạp đứng sững vì bất ngờ. Giọng mẹ xúc động:

- Anh về sao không cho em biết trước?

 Bố không nói không rằng, từ từ tiến đến bên mẹ, gương mặt bạnh ra, ánh mắt nảy lửa. Bất thần bố giơ tay tát bốp vào mặt mẹ, làm nó sưng vêu, đỏ lựng một bên má. Nước mắt mẹ chảy ra. Nhưng mẹ không nói gì, mẹ dắt xe đạp vào trong sân. Xách túi và chạy vào buồng trong khóc rưng rức.

Bố đứng lặng ngoài ngõ. Mình chạy ra, lần đầu tiên trong đời mình đã hành động như một người có ý thức. Mình nói với bố:

- Sao bố lại đánh mẹ?

 Trông điệu bộ và sự giận dữ của mình bố như thấy có lỗi. Bố  cúi xuống, định nắm lấy tay mình thì mình vùng chạy vào nhà.

- Con không chơi với bố đâu.

Chiều hôm ấy bố đi luôn, không trở vào nhà nữa. Suốt đêm mẹ buồn. Mẹ lại khóc. Trong trí óc non tơ của mình hằng đêm những suy nghĩ, dằn vặt không hiểu từ bao giờ, tất cả đã trở nên thật tồi tệ. Cuộc sống đã trở nên lạnh giá giữa tất cả mọi người. Sáng hôm sau ông nội về. Cũng với một vẻ trầm tư khó hiểu. Ông bước vào nhà, soạn sửa đồ đạc. Bà nội thì vẫn lảm nhảm:

-  Ông chết ở đâu mấy ngày thế? Không ở nhà mà coi chúng nó cắn xé nhau.

Ông làm như không nghe thấy gì. Từ lâu rồi ông vẫn vậy, bà nói gì thì mặc bà. Không đôi co làm gì cho mệt. Nhưng khi mình đến bên, ông nhìn mình:

- Mẹ vẫn đi làm hả cháu? Mấy hôm nay có gì không?

 Mình nói:

- Ông ơi, bố về. Bố còn đánh mẹ nữa…

 Ông rút vội tay ra khỏi chiếc túi du lịch cũ. Ông nhìn mình:

- Bố con về thật ư?

 Mình đáp:

-  Vâng!

 Ông lại không nói gì, dường như ông đang nghĩ ngợi điều gì.

  Đến chiều mẹ từ công ty đá về. Ông và mẹ đang nói chuyện. Mình nghe lỏm được:

- Bố muốn đưa mẹ con vào ở với nó.

Mẹ mình ngăn:

-  Không được đâu bố… Mẹ tính tình như vậy, ở thành phố không tiện, anh ấy còn có nhiều công việc…

 Bà nội ở phòng bên đã tiến đến gần chỗ hai người nói chuyện từ bao giờ, bà thét lên:

- Đưa tôi đi để mà ở với nhau cho sướng hả?

 Rồi bà ngã lăn xuống nền nhà, la hét ầm ĩ. Dân trong xóm đã quen với cảnh này, nhưng vẫn không tránh được hiếu kỳ. Ngoài bờ rào có mấy người lấp ló nhìn vào nhà.  

Chuyện đau buồn đã xảy ra trong đêm hôm đó. Bà nội nằm trên giường, bỗng nhiên kêu lạnh, nấc lên một tiếng rồi bỗng trợn mắt, há miệng. Gọi y sỹ đến, y sỹ tiêm xong phát thuốc thì bà đã chết.

Ông cho người đi đánh điện gấp gọi bố về. Bố lặng lẽ làm bổn phận của một người con cho xong tang lễ của bà nội. Trong đôi mắt bố có chút gì lạnh lẽo.

Đêm hôm sau, trong cái yên tĩnh đến ngạt thở, mình lại nghe thấy tiếng nức nở của mẹ giữ những lời đứt quãng: “ Cây ngay không sợ chết đứng. Em sống thế nào có trời đất biết”. Mình không hiểu những lời thề thốt ấy nghĩa là gì. Chỉ biết thái độ của bố đối với mẹ không thay đổi. Xong việc, bố bỏ đi luôn. Còn ông nội, sau ba ngày hương khói cho bà, trong một đêm ông đã lặng lẽ bỏ nhà đi đâu không ai biết.

Niềm hy vọng và mong đợi một ngày kia ông sẽ trở về vẫn không lúc nào nguôi trong tâm khảm mình. Mỗi buổi sáng mình tỉnh dậy không thấy ông lại rưng rưng nước mắt. Và mỗi hoàng hôn, mình nhìn về cuối ngõ, mong tìm trong số những người đi lại có ai giống như ông. Mình tưởng tượng ra cảnh ông về. Ông ôm chầm lấy mình và cả hai ông cháu đều khóc. Mình không thể nào hiểu được từ đó, mình đã mất đi một tình cảm ruột thịt, sâu nặng nhất. Mãi nhiều năm sau, sự ra đi của ông vẫn còn day dứt, đè nặng trong tâm tư của mình. Mình không thể nào hình dung ông đã làm một điều gì độc ác mà người ta lại nguyền rủa cho đó là ác giả ác báo. Đối với mình, ông luôn là một người nhân từ. Ông yêu quý mình. Chính ông đã gieo vào tâm hồn mình những tình cảm đẹp đẽ. Những kỷ niệm về ông từng đêm hiện lên trong tâm tưởng mình ngay cả trong những giấc mơ. Mình luôn có cảm giác ông đang ở đâu đó thật gần, đang theo dõi từng hành động của mình.

Một thời gian sau mẹ quyết định đóng cửa căn nhà ở quê, chờ có người mua sẽ bán và hai mẹ con lên ở khu tập thể của công ty đá. Năm ấy mình cũng bước vào lớp một. Ở một nơi gần với công trường có nhiều người, dù cuộc sống không bớt khó khăn, nhưng cả mẹ và mình đều thấy vui hơn. Ngoài giờ làm việc, các cô các bác sống trong những nhà tập thể san sát vẫn sang nhà nhau chơi. Có chút gì ngon còn đưa sang biếu. Có gì vui buồn thì cùng chia sẻ. Bọn trẻ trong khu tập thể cũng quý mình.

Mình có thêm hai người bạn mới là Nhung và Thuý. Cả hai đều gầy, nhưng Nhung thì đen và hay nói còn Thuý trắng và hay cười. Dường như ngoài giờ học, cả ba đứa không mấy khi rời nhau. Và điều bất ngờ với cả mình, Nhung chính là con nuôi của cô Tình, còn Thuý là cháu của ông Hữu. Cũng chính vì vậy, mình thường xuyên có mặt ở nhà cô Tình, nhiều lúc lại lân la tìm cách đến gần ông Hữu.

Đối với mình hồi ấy ông Hữu là người vô cùng tài giỏi. Mình nghe như mê ly những lời thơ ông vẫn đọc cho mọi người, sau một ngày làm việc, chụm nhau bên ngọn đèn, uống bát nước chè xanh và nghe thơ… Những lúc gặp ông ở nhà một mình, mình hay nài ông đọc thơ và kể chuyện hồi còn ở chiến trường. Có khi mình lại hỏi ông về chuyện làm thơ.

- Ông bày cho cháu làm thơ ông nhé. Cháu muốn làm thơ mà không thể viết được…

 Ông không nói gì, chỉ cười. Mình không hiểu ý ông ra sao.

Ngoài thời gian làm việc ở công trường, Thuý kể, đêm nào ông cũng đọc sách và hý hoáy viết. Những gì ông viết không ai được đọc. Ông có một cái rương sắt nhỏ chuyên đựng những gì ông viết ra. Chìa khoá của cái rương đó ông cất đâu không ai được biết. Có người phỏng đoán ông viết về quãng đời chinh chiến thời trẻ của mình. Lại có người nói ông làm thơ. Chuyện trong nhà ấy không hiểu sao, lại lọt đến tai của lãnh đạo công ty đá và người ta cứ đòi xem. Ông không cho xem. Thế rồi một hôm ông mời lãnh đạo công ty đá đến nhà. Mọi người thấy ông dốc trong cái rương sắt ra toàn là những tờ giấy viết tay. Rồi ông châm lửa đốt.

- Các ông muốn xem. Tôi không thể cho các ông xem. Các ông sợ những tờ giấy này không có lợi cho các ông, cho tập thể  thì tôi mời các ông đến để chứng kiến rằng tôi đã đốt hết. Từ nay, tôi không viết nữa. Các ông đã bằng lòng chưa?

Sau chuyện đó, không ai dám sang nhà ông Hữu chơi nữa. Ở công trường, cũng ít ai dám đùa vui hay trò chuyện với ông. Mỗi bước đi của ông dường như đều bị lọt vào con mắt lặng lẽ theo dõi của ai đó.

Ở trường, mấy đứa trẻ bọn mình chơi với nhau thật vui. Nhưng một hôm, thằng Hậu con ông bí thư xã chỉ vào mặt Thuý nói:

- Mày là cháu tên phản động. 

Thế là Thuý bỏ chạy về nhà. Vừa chạy vừa khóc nức nở. Mình chạy theo Thuý. Về đến nhà, chẳng có ai. Nó nằm sấp trên giường úp mặt xuống chiếu âm ỉ khóc. Mình bảo Thuý:

- Nó nói gì, kệ mẹ nó, khóc làm gì.

 Rồi mình kéo Thuý đi hái hoa dại ngoài bờ rào. Ở đó có nhiều hoa tím rất đẹp mà không biết tên. Sau chuyện đó, Hậu và Thuý không nhìn mặt nhau. Bọn mình tỏ ra khinh bỉ Hậu, vì nó đã làm Thuý đau đớn. Mình còn bảo Thuý

- Ông của bạn là một nhà thơ, lẽ ra Thúy phải rất tự hào chứ.

Sau chuyện xảy ra với Thuý được vài hôm thì đến lượt Nhung chạy đến nhà mình hai mắt đỏ hoe. Mình hỏi mãi Nhung mới nói, mẹ nuôi của Nhung hình như sắp lấy chồng. Mình bảo với Nhung:

- Thì có sao đâu.

Nhung vẫn khóc, nói nghẹn ngào:

- Tớ không biết sẽ phải đi đâu?

 Mình kinh ngạc.

- Nhung nói gì? Mẹ bạn đuổi bạn đi à?

 Nhung trả lời:

- Không! Nhưng chú ấy không thích tớ. Tớ biết thế.

Chuyện có người tìm hiểu cô Tình chẳng bao lâu đã lan ra khắp công ty đá. Ngồi đâu người ta cũng bình phẩm về người đàn ông đang tán tỉnh cô Tình. Đó là một người nát rượu, chết vợ và có ba con nhỏ. Cô Tình cũng muốn có một tấm chồng, mỗi lần ông ta đến đều ngồi tiếp. Nhưng vừa đến nhà là ông ta lại lôi trong túi ra một cút rượu và lấy chén rót tu từng ngụm một. Ông ta nói thẳng, ông không nuôi được con, thời buổi khó khăn này kiếm được chén rượu uống hàng ngày đã khó huống gì nuôi con. Vợ ông đã chết. Nếu cô Tình lấy ông thì phải đảm nhận trách nhiệm nuôi con cho ông. Cô Tình vẫn vui vẻ và định chấp nhận thì ông ta chỉ vào Nhung, nói:

- Cô đuổi cái con ranh con này đi.

Cô Tình im lặng. Gã đàn ông tưởng cô đồng ý, nói tiếp:

- Nó với cô dù sao cũng là người dưng…

 Không ngờ cô Tình nổi giận:

- Anh về đi, đừng bao giờ đến đây nữa. Tôi không thể chấp nhận một người như anh làm chồng.

 Gã đàn ông quá bất ngờ với cú phản ứng ấy của cô Tình, mở đôi mắt kinh ngạc nhìn cô giây lâu. Cô Tình ứa nước mắt, quay đi. Gã cười:

- Cô mà cũng nói thế ư? Cô tưởng cô cao giá chắc? Tôi nói cho cô biết, đàn ông, những thằng khoẻ mạnh thông minh nó chết hết rồi. Đất nước này, bây giờ chỉ còn bọn khốn nạn như tôi thôi. Cứ giữ lấy cái của quý của cô mà thờ.

 Nói rồi gã khật khưỡng bước ra ngoài, xiêu vẹo bước trên con đường khuất khúc, loang lổ bóng tối.

Ở công ty đá còn có những chuyện kinh khủng. Trong số trẻ con được sinh ra tại khu tập thể ấy có nhiều đứa bị nhiễm chất độc màu da cam từ bố mẹ. Vừa đẻ ra, có đứa đã bị méo mồm, khoèo tay chân, có đứa bị to đầu mà đần độn, lại có đứa còng lưng, ngắn lưỡi suốt ngày chỉ ú ở được mấy tiếng. Phần lớn trẻ bị nhiễm chất độc màu da cam đều bị đần độn. Có đứa suốt ngày lúc nào cũng như đang nhe răng cười, nhưng đó là nụ cười vô hồn, nụ cười định mệnh. Lại có chuyện, vợ chồng cô Giao, đều là cựu chiến binh và thanh niên xung phong đã sống một thời oanh liệt. Vậy mà, cô Giao bị nhiễm chất độc da cam, bảy lần có thai, bảy lần thai đều chết lưu trong bụng. Và bảy cái thai ấy, cái nào cũng bị tật nguyền.

 

 

Bố mình lại về. Lần này bố có vẻ béo hơn, gương mặt không đăm đăm cau có như trước nữa. Bố bảo vừa có quyết định chuyển ra Hà Nội công tác và sẽ đưa cả gia đình ra ngoài đó. Suốt một đêm liền, bố mẹ nói chuyện với nhau trong buồng dành cho hai người. Mình căng tai nghe nhưng chỉ thấy những tiếng rì rầm không rõ. Sáng hôm sau thì bố đi, gương mặt mẹ nặng trịch. Bố tỏ ra ân cần:

- Em đồng ý với anh nhé…

 Mẹ lắc đầu. Mắt bố rất buồn. Bố ôm hôn mình rồi lặng lẽ ra đi.

Từ ngày ông nội biến mất, giữa bố và mẹ vẫn rất nặng nề. Càng ngày mình càng hiểu, có một cái gì thực sự phức tạp và nghiêm trọng đang diễn ra, ngăn cách bố và mẹ đến với nhau. Cuộc sống gia đình có lúc đã trở nên lạnh giá.

Một tháng sau bố lại về. Lần này bố mẹ lại nói chuyện suốt đêm. Hôm sau mẹ vui vẻ nói với mình:

- Ngân này, mẹ nói cho Ngân biết, cả nhà ta sắp chuyển ra Hà Nội.

 Mình mừng quýnh nhưng sau đó lại thấy buồn ngay. Tự nhiên mình thấy nhớ, chưa bao giờ mình có cảm giác gắn bó với khu tập thể công ty đá này và những con người ở đây đến thế. Nghe nói có một người chức tước to lắm, ngày xưa là bạn của ông nội đã xin cho cả bố và mẹ chuyển về công tác tại Bộ công nghiệp. Sự thật mình chẳng biết công việc cụ thể của bố và mẹ ở Hà Nội là gì. Nghe nói Bố là kỹ sư chế tạo máy chuyên làm việc ở bộ phận giám định chất lượng gì gì ấy. Còn mẹ, làm nhân viên ở văn phòng Bộ.

Mình nhớ như in ngày mình chuyển khỏi khu tập thể công ty đá. Mờ sáng, bố mẹ thu xếp xong đồ đạc vào các túi du lịch, mấy cái rương gỗ. Các cô các chú trong khu đều ra tiễn. Cái Nhung và cái Thuý khóc nức nở khi phải chia tay với mình. Đến cả ông Hữu cũng ra tận bến xe, trước khi xe chạy ông dặn mình:

- Cháu phải chăm ngoan, nghe lời bố mẹ và học cho giỏi.

Chưa bao giờ mình đi đâu một quãng đường dài đến thế. Hai bên đường biết bao nhiêu là cảnh vật hiện lên trong mắt mình. Đến chiều thì Hà Nội hiện ra trong tầm mắt. Hà Nội cơ man nào là nhà tầng. Có những con đường nhựa phẳng lỳ và hai bên đường vô số quầy hàng. Ngay cả đến người đi đường cũng đông đúc và có cái vẻ đài các, kiêu sa thế nào ấy. Mình bỗng thấy vui vui. Được ở một nơi như thế này chắc là thích lắm.

Nhà tập thể mà bố mẹ mình được phân là căn phòng nhỏ chừng 18m2. Căn phòng này vốn được xây từ những năm sáu mươi nằm trong một khu chung cư lớn, không có bếp, không có công trình phụ riêng. Mình rất đỗi ngạc nhiên với kiểu thiết kế nhà ở ấy. Ở quê, hồi ở công ty đá, dù sao còn rộng rãi… chứ ở đây thì…  

Bố nói với mình rằng, không phải các kỹ sư dốt nát mà làm nên những căn nhà có khuyết tật như vậy đâu. Đó là bắt nguồn từ một chủ trương, làm sao để mọi người cùng nhau xây dựng đời sống chung. Nghĩa là phải cùng nhau ăn cơm tập thể, mọi sinh hoạt đều chung, đến cả đi vệ sinh cũng tập trung vào một khu vực…

Mình không mặn mà gì với cái lý thuyết chết tiệt của ông kỹ sư nào thiết kế nhà ấy. Mình chỉ biết, muốn nấu cơm cũng không có bếp. Mọi người cứ phải tận dụng hành lang để nấu nướng. Lò than tổ ong, nồi niêu rổ rá để bừa bãi dọc lối đi. Muốn đi vệ sinh cũng phải đi qua cửa bao nhiêu gia đình khác ngượng đến chết khiếp. Mà bẩn thì ôi thôi là bẩn. Chẳng ai làm chủ cái chỗ xú uế ấy cả. Nhiều khi hàng xóm đánh chửi nhau cũng vì bức bách từ chỗ xú uế ấy mà ra. Vòi nước máy thì khô cạn. Mỗi khi có bơm nước, bao nhiêu người mang xô ra chen chúc nhau bên cái vòi. Thật là hết chỗ nói… 

Mấy hôm sau, khi sửa soạn đồ đạc trong nhà và kê bàn thờ, mẹ hỏi ý bố:

- Ông nội bỏ đi không biết còn hay mất, mình có nên thờ ông không nhỉ? Không thờ thì áy náy, nhưng thờ mà nhỡ ông vẫn còn sống thì mình có mang tội gì với ông không?

 Bố vừa nghe hết câu đã gạt đi.

- Em đừng quan tâm đến chuyện ấy.

 Thế là mẹ giận bố. Mẹ vừa khóc vừa nói như cãi nhau với bố:

- Anh là con trai mà anh nỡ đối xử với ông thế à?

 Bố bảo:

- Thôi em im đi cho anh nhờ. Em bảo anh không có hiếu với bố ư?  Ông ấy sống thế nào mà người ta nguyền rủa. Người ta còn đồn ầm lên bao nhiêu chuyện xấu… Em biết rồi đấy.

 Lần này thì mẹ giận dữ thật sự:

- Anh đừng có nói nữa. Anh là con mà không hiểu được bố. Làm chồng mà không hiểu được vợ, không phân biệt được sự đúng sai. – nói rồi mẹ lại khóc.

Những ngày ấy đói kém, thiếu thốn đủ bề. Mẹ đi làm ở cơ quan hình như công việc không phù hợp. Mình thấy mẹ phải thức khuya dậy sớm đọc thêm nhiều tài liệu. Tối về trông mẹ mệt bơ phờ. Mình có cảm giác mẹ còn mệt mỏi, vất vả hơn nghề gánh đá và đập đá ở công ty cũ. Tình cảm giữa bố và mẹ không được hoà thuận. Mình luôn thấy có những người vô hình chen vào, ngăn cách cuộc sống của mẹ và bố. Lúc vì nhắc đến ông nội mà bố mẹ giận nhau. Lúc thấy mẹ hậm hực vì nghĩ bố còn vương vấn đến một ai đó. Đêm đêm mẹ ôm lấy mình mà ngủ, mặc kệ bố ở giường bên. Càng lớn lên, mình càng chú ý đến chuyện tình cảm giữa hai người. Dần dần mình cảm nhận được, có một người đàn bà bí ẩn nào đó đã chia rẽ mẹ và bố…

Thế rồi mình quyết định tìm kiếm những dấu tích bí mật trong cuộc đời của bố. Đợi lúc bố và mẹ đi làm, mình kê ghế đứng lên lục lọi trong đống đồ đạc để trên gác lửng nhỏ trên sát trần nhà trong một góc phòng. Mình tìm được chìa khoá mở một chiếc rương cũ lâu nay vẫn thường bị khoá kín. Bên trong có một bọc ni lông buộc cẩn thận bằng sợi dây mềm cắt ra từ một tấm vải. Mình nhấc cái gói ra khỏi rương, mang hẳn xuống, đặt lên bàn, hồi hộp mở ra. Hết lớp thứ nhất lại hiện ra lớp ni lông thứ hai. Mình mở tầng thứ hai. Bên trong là sổ khám bệnh ở bệnh viện tỉnh và một cuốn nhật ký cũ, một bản lý lịch tự thuật.  

Tay mình run run… Mình giở cuốn nhật ký cũ. Từ bên trong rơi ra bức ảnh đen trắng. Trong bức ảnh có một thiếu phụ đang bế trên tay đứa con gái nhỏ. Cả hai mẹ con nhoẻn miệng cười. Mình đọc dòng chữ đầu tiên trong cuốn sổ: “Hôm nay là một ngày buồn… Mình đã đi khám bệnh… Các bác sỹ phát hiện ra một căn bệnh khủng khiếp đến với mình…”. Mình buông cuốn nhật ký xuống, như bị điện giật. Chưa bao giờ mình nghĩ bố lại bị một căn bệnh gì mà phải giấu mọi người. Mình lại lật mặt sau tấm ảnh. Từ đó hiện lên dòng chữ: “Hiền và con gái yêu của mình”. Trời ơi! Mình muốn thét lên thật to. Đứa bé trong ảnh không phải là mình. Người đàn bà trong ảnh cũng không phải mẹ mình. Vậy là bố thực sự đã có một người đàn bà khác và còn có con với người ấy nữa? Tâm trí mình như bị rối loạn…

-  Ngân! Làm gì thế?

 Có tiếng nói của bố ở ngay  sau lưng mình. Chết rồi, bố về. Mình nhớ ra, mình đã không đóng cửa và bố đã lặng lẽ bước vào từ bao giờ. Bố gạt mình ngã vào góc phòng. Gấp cuốn sổ lại và gói vào gói ni lông và bỏ lại chỗ cũ.

 - Bố cấm con lục lọi những thứ của bố.

Từ đó mình không biết bố để chìa khoá ở đâu. Mọi bí mật càng đè nặng lên tâm tư mình. Nhiều tháng sau, mình vẫn còn bị ám ảnh bởi những điều biết được trong cuốn nhật ký ấy. Đến nỗi mình học sút hẳn đi. Đêm đêm mình thức giấc lại suy nghĩ… Mình không thể nào hiểu được thế giới của người lớn, sao nó rối rắm, phức tạp và huyền bí đến vậy.

Đến một ngày, khi bố đi vắng, mình quyết định nói chuyện đó cho mẹ biết. Mình đến bên, cầm lấy bàn tay mẹ, giọng thủ thỉ:

- Mẹ ơi, con muốn kể với mẹ một việc… Con đã đọc nhật ký của bố…

 Mẹ nhìn mình:

- Con có im đi không?

 Rồi mẹ đi ra chỗ khác. Mình không thể ngờ mẹ lại đối xử với mình như vậy. Hình như mắt mẹ rơm rớm nước. Mình lại càng không hiểu… Mình nhận ra rằng, có lẽ chỉ mình là người thực sự không biết gì về những người thân xung quanh mà thôi. Càng nghĩ mình lại càng uất ức và thấy đau lòng. 

 

Mình đã cố gắng học. Hà Nội dù sao vẫn là một môi trường học lý tưởng. Mình tiến bộ lên không ngừng. Dự định sẽ đi theo khoa học tự nhiên nên mình cố gắng học đều cả ba môn toán, lý, hoá. Ngoài ra, mình còn có sở thích và năng khiếu về văn học và sử học. Nói chung, mình học giỏi toàn diện và luôn đứng đầu lớp. Vì thế, cả trường thậm chí ở nhiều trường khác cũng có người biết mình. Mấy phóng viên báo, đài cũng đến phỏng vấn mình.

Tâm hồn mình trở nên dễ rung động lạ thường. Năm mình mười lăm tuổi,  không hiểu sao, mình cứ thích soi gương. Muốn vuốt lại những sợi tóc rối. Muốn ngắm đôi má thỉnh thoảng lại ửng hồng khi nghĩ về Khánh. Anh học trước mình hai lớp. Thỉnh thoảng mình đến chỗ anh để mượn sách. Lần nào ánh mắt mình và anh cũng chạm nhau làm mình thấy tim đập rộn ràng. Có gì khó mình cũng hỏi anh. Khánh vốn cũng là một trong những người học cừ nhất thành phố.

Có lần mình viết cho anh mấy dòng thư để cảm ơn việc anh đã nhiệt tình giúp mình trong một thời gian dài. Nhân tiện, mình gửi cho anh bông hoa hồng trắng ép. Mình có nghĩ gì đâu. Vậy mà mấy hôm sau, mình nhận được thư anh. Một bức thư dài… Anh khen mình nhiều quá. Nào là mình thông minh lại xinh xắn, nhiệt tình với bạn bè… Tóm lại, trong mắt anh, mình là một người hoàn thiện. Mình biết, anh đã yêu quý mà quá khen mình lên đấy thôi, chứ mình thì có khác gì những cô gái hơn đâu. Thư đi, thư lại mấy lần, mấy tháng sau anh viết cho mình rằng: “ Đối với anh, em đẹp đẽ lạ lùng. Ngày nào anh cũng nghĩ đến em. Và dường như anh sẽ không thể nào chịu nổi, nếu một ngày phải xa em…” 

Mình đã nghĩ nhiều về tình yêu, đọc trong sách vở cũng nhiều. Nhưng mình có ngờ đâu tình yêu lại đến với mình như lửa thế này. Nó làm mình cồn cào, run sợ. Mình bồi hồi nhớ lại những năm tháng cùng chung một mái trường. Có lần mình đi học về hỏng xe đạp, anh cứ nằng nặc đòi dắt giùm. Thế là thân nhau. Những buổi tối cùng đám bạn đi ăn kem Tràng Tiền, đi dạo lang thang trong vườn Bách thảo. Những lúc cùng nghe một bài thơ, cùng giải chung một bài toán khó… Hoá ra tình yêu có phải bắt đầu từ một cái gì cao xa đâu nhỉ, nó bắt đầu từ những gì đơn sơ, gần gũi nhất và tấm lòng chân thực dành cho nhau.

Cũng như mọi tình yêu tuổi học trò khác, mình và anh Khánh không thể đến với nhau được. Dù tình cảm đầu đời đã làm thay đổi biết bao điều trong lòng mình, nhưng mình kiên quyết từ chối nó. Như một bản tính sợ hãi hoang sơ đã trỗi dậy chiến thắng lòng ham muốn và khát vọng khám phá những điều mới mẻ trong cuộc sống. Như tình yêu ngay từ trong cảm thức tuổi thiếu niên đã nhuốm màu tội lỗi và nỗi mặc cảm xấu xa. Đến bây giờ mình cũng không tài nào hiểu được, dường như quê hương xứ sở mình sinh ra đã quy định cho mình cách hành xử đó. Mình viết thư cho anh : “Cả anh và em còn có nhiều việc phải làm. Tất cả còn ở phía trước. Trong những năm tới đây, em còn phải học rất nhiều để thi đại học. Anh càng phải lo lắng nhiều hơn, vì kỳ thi quan trọng ấy đối với anh đã rất gần. Trong thời gian tới em sẽ không gần anh như trước nữa…”

Mình kiên quyết tạo ra khoảng cách và từ chối mọi lời mời mọc, rủ rê đi chơi với anh. Mình lao vào học. Anh cũng vậy… Hai năm sau, anh thi đại học đạt điểm cao và được gửi đi Nga học. Ai cũng vui cho anh. Mình cũng vậy. Chỉ khi anh đã đi rồi, trong một buổi chiều thu đầy nắng, tiễn anh từ sân bay trở về, mình mới  thấy cay cay trong mắt. Mình thấy buồn… Buồn… Và hụt hẫng. Nhưng mãi đến sau này mình cũng không nói với ai chuyện đó. Lòng kiêu hãnh đã phong kín, đã vây ráp tất cả. Nỗi cô đơn lớn dần lên trong mình. Dần dần như căng nén, như muốn oà vỡ ra. Càng xa nhau, hình ảnh anh càng choán lấy lòng mình. Và chính hình ảnh ấy đã che khuất tất cả mọi lối vào trái tim mình của các chàng trai khác. Mình chỉ thầm lặng nghĩ về anh. Anh trong mình càng lúc càng giống như một giấc mơ, một hoài niệm và một nỗi đau. Anh như là không thực, mà sao lại xoáy vặn lòng mình đến vậy.

Thỉnh thoảng mình cũng nhận được thư anh. Lúc đầu anh nói mình đã trở thành quê hương của anh. Mỗi ngày trôi qua, anh đều nghĩ đến mình. Nhưng những tình cảm mặn mà ấy không còn được khắc sâu thêm trong những lá thư sau. Càng ngày anh càng hay kêu bận. Anh đang phấn đấu để học sau đại học ở Nga. Công việc chất lên như núi trước mặt anh…

Mình viết thư, mình hứa với anh, mình cũng sẽ học và đỗ đại học. Mình cũng sẽ làm Tiến sỹ ở nước ngoài như anh và nhất định sẽ có ngày gặp anh ở Matxcova. Điều bất ngờ nhất là bức thư ấy không được anh trả lời. Càng ngày mình càng bặt tin về anh. 

 

Dạo đó mình đang bận cho kỳ thi toàn quốc và cũng phải lo lắng cho chuyện thi đại học nên thường về muộn. Vừa bước vào cửa, mình thấy ông Hữu. Trời, ông cũng ra thăm nhà mình kia đấy. Mười năm qua rồi, dường như không biết tin tức gì về ông. Trông ông vẫn khoẻ và có vẻ vui hơn.

- Cháu Ngân đấy hả? Lớn quá. Xinh quá… Có nhận ra ông nữa không?

 Mình chào ông. Mẹ bảo:

- Ông ra Hà Nội họp… ở Hội nhà văn.

Ông cười.

- Làm nhà văn cả đời, bây giờ mới được đi họp.

 Bố bảo:

- Đổi mới rồi có khác… Thơ của ông được tuyển vào tập Năm mươi bài thơ tình hay nhất thế kỷ.

 Ông lại cười. Tiếng cười có chút gì nghèn nghẹn. Lúc sau mình mới hỏi:

- Ông ơi, Thuý thế nào rồi hở ông?

 Ông nhìn mình, nói từng tiếng một:

- Nó mới lấy chồng cháu ạ.

 Mình sững sờ. Lấy chồng… Mới mười mấy tuổi đầu. Mình đã học xong cấp ba đâu. Mình cũng đã biết gì đến nụ hôn của con trai đâu, thế mà Thuý đã lấy chồng. 

Bữa cơm gia đình vui vẻ. Xưa nay nhà mình không mấy khi nói chuyện chính trị. Thế mà nay vui tươi rôm rả. Ông Hữu vui buồn lẫn lộn.

- Không biết người ta còn đổi ra thế nào nữa, nhưng tôi sợ, trước đây người ta cấm tiếng khóc trong văn chương, tới đây đâu đâu cũng đầy tiếng khóc. Không biết người ta có cấm tiếng cười không?

 Tối hôm ấy ông Hữu chào mọi người trong nhà mình để về khách sạn. Ông lại bảo:

- Tôi cũng ngủ khách sạn lấy một đêm, kẻo chết đến nơi rồi. Tôi thấy nấm mồ của mình ở trước mặt.

Rồi ông cười, bước chậm ra phố.

Mình thấy ông Hữu nói toàn lời đau xót. Không hiểu từ ngày mình xa ông điều gì đã xảy ra trên cái công ty đá ở vùng quê nghèo khó và lạc hậu ấy. Mình cũng tiếc là chưa kịp hỏi về cô Tình, về Nhung và những cô chú trong cơ quan của mẹ ngày xưa.

Thực ra thì cũng có xa xôi gì cho lắm đâu. Mình nghĩ, nếu như bố mẹ mình muốn về thăm quê thì cũng không phải là chuyện khó khăn gì. Không hiểu có chuyện gì mà từ khi mình còn nhỏ đã thấy gia đình mình bị nhiều người khinh ghét và xa lánh, nguyền rủa. Cả chuyện bà nội bị điên nữa… Rồi những lời đồn đại không hay ho gì về ông nội và mẹ… Tất cả lại từ trong đám mây mù quá khứ ùa về. Mình lại mất một đêm không ngủ. Mình nghĩ, mình sẽ làm rõ mọi chuyện. Mình sẽ lấy lại danh giá cho gia đình mình. Nhưng rồi biết bao điều ngổn ngang trong tâm khảm mà mình không thể nào hiểu được.

Một buổi tối, mẹ và mình đợi mãi vẫn không thấy bố về. Đến nỗi mẹ nóng ruột đi đến nhà chú Huỳnh, thủ trưởng cơ quan bố hỏi xem sao. Nhưng chú ấy vẫn chưa về. Đợi suốt một đêm, sáng hôm sau, hai mẹ con mình  đến thẳng cơ quan, mới biết bố bị công an bắt. Mấy người ở cơ quan nói, họ không rõ lắm, nhưng hình như bố đã đánh mất nhiều tài liệu quan trọng. Người ta nghi ngờ có một âm mưu gì đó…

Mẹ nghe nói mặt xanh tái như không còn hột máu. Mẹ ngồi bệt xuống nền sân trước cửa phòng bảo vệ. Dường như mẹ sắp ngất đi. Chưa bao giờ trong đời mình thấy mẹ mình buồn và lo lắng, suy sụp nhanh đến vậy. Lúc ấy, trong mình như có một con người khác trỗi dậy. Một con người bạo liệt, quyết đoán. Mình dựng xe, để mẹ lên phía sau xe và một tay đỡ mẹ, một tay lái xe, mình đạp thẳng về nhà. Mình không muốn mọi người nhìn thấy mẹ mất tinh thần như thế. Trên đường về nhà, mình loạng choạng suýt ngã mấy lần nhưng đều gượng lại được.

Về đến nhà, mình đã thấy một chiếc xe cảnh sát đỗ sẵn ở phía dưới. Linh tính báo cho mình, họ đến khám nhà. Mẹ nhìn thấy cảnh đó, đột ngột ngất xỉu. Mình hô cấp cứu. Bác sỹ Mạnh ở tầng dưới chạy lên bế mẹ xuống phòng khám của ông. Mình thì chạy đến trước cửa nhà, mình nói với người chỉ huy:

-  Các ông đến đây có việc gì?

 Đó là một đại uý, anh ta nghiêm trang nói:

- Chúng tôi được lệnh khám nhà. 

Mình chắn ngang cửa:

- Bố tôi đi vắng, mẹ tôi đang phải cấp cứu. Tôi không đồng ý các ông khám nhà trong tình trạng như vậy!

 Viên chỉ huy đã mời đến những người làm chứng và ra lệnh phá cửa. Người ta không thèm để ý đến ý kiến của mình. Mình rất bực tức và thất vọng. Năm ấy mình đã gần tròn mười bảy tuổi, không gì thì mình cũng là một thành viên của gia đình mà họ khám xét, mình có quyền lợi và nghĩa vụ với gia đình mình.

Người ta đã lục tung tất cả, nào sổ khám bệnh, cuốn nhật ký của bố, những bức thư tình của bố mẹ gửi cho nhau từ khi mình còn chưa có mặt trên thế gian này. Cả đến sách vở của mình cũng bị giỡ tung ta. Thư anh Khánh gửi từ nước ngoài về cũng bị xem xét. Những gì cấm kỵ, những gì từ lâu vẫn bị coi là thầm kín thiêng liêng mà nếu một người thân nào trong gia đình xâm phạm đến của người kia cũng có thể bị trách cứ, bị coi là thiếu tế nhị thì bây giờ phơi bày ra hết cho mọi người cùng xem. Một cảm giác đau đớn thuộc về tâm não choán lấy mình.

Mình khóc. Nhưng nước mắt dường như cạn kiệt. Thế là mình đành xông vào viên chỉ huy. Mình cào cấu, cắn xé. 

- Tôi coi thường các anh về hành động này. Tôi sẽ nhớ đời. Tôi sẽ kêu lên chủ tịch nước. Tôi sẽ viết lại cho tất cả người lương thiện biết mà khinh ghét các anh.

Mọi người vẫn không nói gì. Viên thư ký ghi tên các tài liệu mà họ nghi ngờ cần phải mang đi.  Khi đoàn người rút đi, mình nhìn cảnh bừa bộn ngổn ngang trong nhà mà thấy lòng tan nát. Mình khép cửa lại, chạy xuống phòng bác sĩ Mạnh. Mẹ đang phải nằm bất động trên chiếc giường đệm ga trắng.

-Mẹ đỡ chưa?- Mình hỏi cố để không nghẹn lại. Mẹ mở mắt nhìn mình. Đôi mắt thất thần:

- Sao rồi con?

Mình an ủi:

- Xong rồi mẹ ạ. Bố sẽ được thả ra thôi.

Trưa hôm ấy mẹ đã khoẻ hơn nên về nhà nằm. Hai mẹ con mỏi mắt trông bố, nhưng cho đến tận tối cũng không thấy bố về.   

 

Ngoài cửa, một người đàn bà tầm bốn lăm tuổi, vẻ nghiêm trang, khắc khổ bước vào chào mẹ mình. Bà ta mang theo một cô con gái, trông khá xinh đẹp, hơn mình vài tuổi. Thoạt nhìn mình đã thấy có chút gì quen quen… Hình như là người trong bức ảnh bí mật của bố… Mẹ mình và người đàn bà thì đã quen biết từ lúc nào.

- Anh có ở nhà không hở chị?

Mẹ mình mặt hơi lạnh, trả lời:

- Anh ấy đi vắng.

 Người đàn bà giọng vẫn đều đều:

- Khi nào thì anh ấy về ạ?

 Mẹ mình hơi gắt:

- Tôi cũng không biết.

 Người đàn bà tần ngần định nói gì nhưng lại thôi. Rồi hai mẹ con chào ra về.

Đợi hai người lạ đi rồi, mình mới hỏi mẹ:

- Mẹ biết bà ta hở mẹ?

 Mẹ nói như không có gì quan trọng:

- Biết sơ sơ thôi.

- Thế bà ta tìm bố có việc gì?

- Mẹ cũng không biết nữa.

Mình không hỏi gì thêm, đi dọn dẹp đồ đạc. Vừa làm mình vừa nghĩ về bố. Mình cho rằng bố không phạm tội. Chắc có điều gì uẩn khúc đằng sau, mình tin thế.

Một ngày, hai ngày trôi qua chậm chạp. Cả khu phố đồn ầm lên về chuyện bố mình bị bắt. Lúc đầu mình thấy lòng như lửa đốt, nhưng rồi cảm giác ấy dần thay cho một vẻ lạnh lẽo đến rợn người. Mẹ mình và mình thường thức suốt đêm. Nhiều lúc tắt đèn đi nằm, nhưng mắt mẹ chong chong nhìn vào bóng tối. Không biết điều bí ẩn gì đã dẫn đến tai vạ ấy. Là con của bố, mình hằng tin ông là một người hiền lành lương thiện. Nhưng tại sao, phải có một bằng cớ nào đó về sự phạm tội của bố thì người ta mới bắt được chứ.

Mẹ mình và mình lại đến nhà chú Huỳnh. Chú Huỳnh cho con trai ra mở cửa thấy mẹ con mình thì nói:

- Bố cháu không có nhà.

 Mình ngạc nhiên, mới trước đó tầm nửa phút mình còn nghe thấy tiếng chú Huỳnh nói trong nhà. Vậy mà, chú lại tránh mặt mẹ con mình. Con người vẫn tỏ ra thân thiết với nhà mình, cứ nghĩ như là ruột thịt ấy, không ngờ lại có ngày thế này. Chính chú Huỳnh đã nói là nâng đỡ bố mình…  Chính tai mình nghe, chú nói với bố:

- Anh em ta hoạ phúc có nhau.

 Những lúc như thế bố chỉ cười… Một tình cảm như thế, phút chốc đã thành thay đổi rồi ư?  Tự nhiên mình thấy nuối tiếc… “ Con người vậy đó con ạ, nay thế này, mai thế khác cũng là lẽ thường thôi”. Có lần mẹ đã nói với mình như vậy, nhưng mình không chấp nhận điều đó. Mình nghĩ con người nếu có thể quay mặt với nhau khi hoạn nạn thì cũng có thể trở thành kẻ phản bội nhau. “Con đừng nghĩ linh tinh”. Mẹ lại mắng mình.

Mẹ mình yêu cầu công an Thành phố phải cho biết đã bắt bố vì lý do gì và hiện đang giam ở đâu. Một người mang quân hàm đại uý mời mẹ vào phòng kín. Người ấy tiết lộ:

- Hiện có dấu hiệu của một vụ tham ô lớn. Nhiều giấy tờ quan trọng do chồng chị chịu trách nhiệm quản lý đã bị biến mất. Cơ quan điều tra nghi ngờ chồng chị đã tiêu huỷ những chứng cớ phạm pháp nên tạm giữ để điều tra. Chúng tôi tin rằng, nếu không phạm tội, chồng chị sẽ sớm được trở về với gia đình.

 Mẹ mình nói như sắp khóc:

- Oan cho nhà tôi quá, anh thấy đấy,  chúng tôi sống nghèo nàn, kham khổ, làm gì có chuyện vô lý ấy…

 Người đại uý nói giọng lạnh dần và nghiêm lại:

- Tôi chỉ có trách nhiệm thông báo chính xác cho chị lý do chồng chị bị bắt, ngoài ra tôi không còn có gì khác nói với chị.

 Mẹ mình ra về, đầu óc càng bừa bộn suy nghĩ.

Người ta cũng cho biết bố bị giam trong một nhà giam không xa với nhà mình, nhưng không được gặp mặt. Mỗi sáng, mẹ lại nấu cơm, thịt và nhiều thức ăn ngon khác đến để gửi qua cổng bảo vệ. Nhiều người nói, gửi thì gửi thế thôi, chứ chẳng mấy khi bố nhận được. Người ta đưa đi đâu không biết nữa. Người bị bắt, dù có bị kết tội hay không, trước hết đều phải nhịn  đói, bị tra hỏi, thậm chí bị cưỡng ép, đánh đập là lẽ thường.

Một hôm, có người công an đến nhà, anh ta thông báo với mẹ việc ngày mai, tám giờ sáng mẹ được vào thăm bố. Mẹ đi, mình cũng đòi đi theo. Mấy người canh gác lúc đầu không cho, nhưng mình nằn nèo mãi thì cũng đồng ý. Hai mẹ con ngồi đợi một chút thì bố ra, phía sau có một người công an đi cùng. Trông bố gầy gò, tiều tuỵ, mặc bộ quần áo sọc dành cho tù nhân. Bố nhìn mẹ và mình mà nước mắt ứa ra. Nhưng dường như sự nhạy cảm, nhanh nhẹn đã mất đi nhiều. Đôi mắt bố đờ đẫn. Nhiều khi đang nói chuyện, bố lại quên, ngồi đờ ra như  không hiểu mình đang làm gì, thậm chí không còn nhớ người ngồi trước mình là ai.

Hết mười lăm phút, người công an dẫn bố trở lại trại giam, mình dìu mẹ bước liêu xiêu qua khung cửa hẹp, qua một cái sân rộng lấm chấm bóng áo xanh công an. “Không ngờ bố lại tiều tuỵ đến thế.” Mẹ khóc. Mình không thể nhớ nổi, đã bao nhiêu lần mẹ khóc. Đời mẹ là một chuỗi nước mắt. Ngay hôm sau, mẹ mang chiếc nhẫn vàng đi bán. Chiếc nhẫn ấy là quà tặng của ông bà ngoại cho mẹ lúc mẹ đi lấy chồng, dù bao nhiêu khó khăn ngặt nghèo mà mẹ vẫn không bán, nhưng lần này, mẹ không giữ nó lại nữa. Mẹ cầm khoản tiền đó, đến nhà một công an, nhờ anh ta cầm lấy để lo lót xin cho bố mau được ra tù.

Anh công an sau phút loằng ngoằng tỏ ra từ chối, đã cầm khoản tiền. Nhưng rồi anh ta lại nói:

- Khó lắm. Cũng phải qua nhiều cửa lắm chị ạ..

 Mấy hôm sau, nhà mình còn mỗi cái cát sét nghe nhạc, là tài sản cuối cùng còn có giá, mẹ cũng mang đi bán. Thế là hết, trong nhà rỗng tuếch. Người công an lại cầm và lần này thì không che giấu sự vòi vĩnh… Nhưng, từ đó mẹ không đến nhà anh ta nữa. Còn gì đâu, chỉ còn cách bán nhà, nhưng nhà là của nhà nước, phải thuê và trả tiền hàng tháng đấy chứ!

Mình vẫn đến lớp, nhưng không còn tâm trí học bài. Mình nghĩ bố mình bị oan. Mình thấy tức. Thấy cuộc sống có gì bất công và thiếu lành mạnh quá. Đợt thi học sinh giỏi toàn quốc năm đó mình bị rớt. Nhưng với mình thì dường như nỗi buồn đã chai cứng lại. Mình đã sống những ngày đau đớn hơn nhiều, những bất hạnh còn lớn hơn nhiều với một cô học trò bé con chỉ biết đến điểm số trong một kỳ thì, dù nó có quan trọng đến mấy. Thực ra, trong lòng mình lúc ấy chỉ thấy vô nghĩa. Một sự vô nghĩa kéo dài, nó biến thành một tâm trạng mù mờ, không đầu không cuối. Một thứ tâm trạng như có thuốc độc tiêu huỷ hết mọi lý trí, mọi khả năng phấn đấu.

Không ai dám nghĩ một đứa bé con như mình lại đã từng sống qua những tâm trạng đó.

 

Cả cơ quan bố mình như có tang. Lại một đoàn xe công an tiến thẳng vào và ngay lập tức, chú Huỳnh bị xích hai tay, đưa lên chiếc xe cảnh sát có mui bịt kín. Sau này đã có người đến tận nhà cho biết: Cán bộ trong cơ quan lập tức đóng cửa, túm tụm nhau lại bàn tán xôn xao. Có người nói:

- Ông Huỳnh bị oan.

 Lại có người khác nói:

- Ông Huỳnh với tay Vệ thân nhau thế, làm gì có chuyện không liên quan. Chắc tay Vệ lại khai ra ấy mà…

 Nghĩ cũng lạ, sao người ta lại có thể nghĩ ra nhiều trò đến thế. Dưới con mắt của số đông, lần này bố mình phạm tội là cái chắc rồi. Vụ án xem chừng chưa khép lại mà còn mở rộng ra. Mấy ngày sau lại bắt thêm cả mấy nhân viên phòng tài vụ.

Bỗng lại có tin đồn ầm lên rằng:

- Ông Huỳnh đầu độc ông Vệ.

  Cả cơ quan xôn xao không dứt:

- Ông Vệ ngấm thuốc độc sắp chết rồi, đang đưa đi bệnh viện…

Lúc đầu mẹ nghe tin đó gạt phắt đi, làm gì có chuyện đó. Mẹ bảo :

- Bác Huỳnh với nhà mình tốt đến thế kia mà.

Rồi mẹ nhận được giấy báo từ phía công an, rằng bố đang phải kiểm tra sức khoẻ ở bệnh viên B.M. Mẹ chạy vội vào bệnh viện. Bố đang được khám ở khoa Thần kinh. “Lại có chuyện gì thế này?” Mẹ lại khuỵu xuống. Sao lại hết tai hoạ này đến tai hoạ khác thế kia. Những gương mặt đăm chiêu của các bác sỹ mặc áo choàng trắng gợi nên một nỗi âu lo không giới hạn.

Khi mẹ đến gần, bố quay lại nhìn, nhưng gương mặt dường như không biểu lộ một nét vui buồn. Gương mặt bố thất thần, hốc hác lạ lùng. Cuối cùng, các bác sỹ kết luận: “Tế bào não bệnh nhân bị thoái hoá, trí nhớ bị rối loạn và đang suy giảm nghiêm trọng”. Trời như sập xuống trước mắt hai mẹ con mình. Cái tin vừa nhận được trong bệnh viện còn khủng khiếp hơn cái thực tế là bố bị bắt. Từ ngày hôm đó, bố được điều trị tại bệnh viện và ba hôm sau, có lệnh tha bổng. Gần một tháng sau bố được về nhà. Toàn bộ khoản viện phí được thanh toán theo chế độ bảo hiểm y tế. Nhưng mẹ buồn. Ngoài thời gian đi làm, về nhà mặt mẹ chẳng có lúc nào vui. Mình thì thấy tức. Bố mình đã bị bệnh như vậy, mà người ta còn hành hạ. Trong thời gian bố bị bắt, biết bao nhiêu tổn hại về danh dự, tổn hại tâm sức, tiền của nhưng không ai tính. Mình nói với mẹ, công an mà văn minh, họ phải đến xin lỗi gia đình mình, vì hẳn nhiên là bố vô tội người ta mới thả ra. Mẹ bảo mình hãy thôi đi, người ta tha cho là may lắm rồi. Mình cáu với mẹ, mình không chịu. Mình hỏi mẹ:

- Người ta cứ có quyền thì muốn làm gì thì làm ư? Con thấy họ làm vậy không chấp nhận được.

Mấy hôm sau lại thấy có giấy báo cho gia đình đến cơ quan công an để nhận lại những tài liệu đã bị tịch thu. Mình lại cáu.

- Lẽ ra họ phải mang đến trả lại cho nhà mình, không thể có cái kiểu làm ăn như thế được.

Nhưng mẹ lại nói:

- Họ trả cho là may rồi con ạ.

Mình khinh khỉnh nhìn mẹ. Không hiểu sao, dường như trong óc mẹ, trong máu mẹ, trong xương tuỷ đã hàm chứa bản tính chịu đựng, an phận thủ thường. Nhưng dù có chịu đựng đi chăng nữa thì mẹ cũng có yên được đâu. Cuộc sống đang dồn ép mẹ, đang đẩy mẹ đến cùng cực đấy thôi.

Trong các tài liệu mẹ đến nhận về, có cả cái sổ khám bệnh và cuốn nhật ký cũ mà mình đã nhìn thấy từ trước. Và bây giờ, không điều gì có thể ngăn cản được mình đọc những tài liệu đó. Dù mẹ đã cố tình giấu đi, nhưng mình bây giờ đã là một người khôn ngoan biết cách vượt qua những thách thức ấy. Mình bí mật theo dõi mẹ cất những thứ tuyệt mật ấy, giả bộ không biết gì. Rồi một buổi sáng mẹ đi làm, mình vào buồng, lấy cuốn sổ khám bệnh ấy cùng cuốn nhật ký và lý lịch của bố bỏ vào cặp sách rồi lấy lý do đi học, chào bố dắt xe đạp ra ngoài.

Mình đạp xe vội vã. Đến hồ bảy mẫu, mình gửi xe vào ngồi trên ghế đá, lôi cuốn nhật ký ra đọc. Trên trang giấy ố vàng vì thời gian, những dòng chữ của bố viết hơi run run, nhiều nét nguệch ngoạc, nhưng vẫn dễ đọc. Mình miên man hết trang này đến trang khác, nước mắt mình ứa ra.  “Ngày hôm nay… Sau rất nhiều xét nghiệm, chẩn đoán, cá bác sỹ đã kết luận, mình có dấu hiệu của một căn bệnh não… Người ta chưa hiểu được vì lý do gì mà não của mình có dấu hiệu bị lão hoá nhanh chóng. Bệnh này sẽ dẫn đến suy kiệt dần sức khỏe, mất dần trí nhớ trong những năm tới. Hiện nay, chưa hề có phương thuốc nào chữa được căn bệnh này. Vì vậy các bác sỹ nói rằng mình phải năng tập thể dục, hạn chế làm việc trí óc và uống thuốc bổ não… Tự nhiên mình bị hụt hẫng. Mình nghĩ về tương lai đen tối của đời mình… Mình phải nín nhịn. Mình không được phép cho vợ con mình biết vì như vậy chỉ gieo thêm nỗi buồn vào cuộc đời của những người thân yêu của mình mà thôi.”…

Nước mắt mình nhoè đi… Nhưng cũng lúc ấy, mình phát hiện ra, chiếc túi học sinh và những gì quý báu trong ấy bỗng bị một cánh tay từ phía sau giật mất. Mình đứng phắt dậy, thấy một bóng đen chạy ra phía lùm cây. Mình đuổi theo. Mình hét lên “Cướp, cướp”. Đâu có ngờ rằng, lúc ấy ở một góc khác đang có người cũng đang chạy đến gần mình. Trong khi tâm trí mình chỉ còn nghĩ đến cái túi bị mất và tên cướp thì cái bóng bên cạnh đã nhanh chóng áp sát mình và giật nốt cuốn sổ nhật ký của bố trên tay mình. Mình hoảng hồn, giật mình quay lại thì cái bóng kia cũng đã chạy ra xa. Mình gào lên, xung quanh có mấy người nhưng họ làm như không nghe thấy và không ai giúp mình.

Quay lại ghế đá, mình ngồi khóc. Mình thấy có một cái gì cay nghiệt xót xa. Lúc sau, để tránh con mắt dò la của đám người lạ, mình bước đi lang thang xung quanh hồ. Thỉnh thoảng mình lại thấy những gã người gầy như cò hương, mắt sâu hốc hác nhìn mình. Lại có gã đến gần hỏi: “ Bao nhiêu?” Mình kinh ngạc… Đời sao lại có chuyện lạ lùng như thế giữa ban ngày. Sao cuộc sống lại bẩn thỉu, con người lại trơ trẽn đến thế kia chứ. Hoá ra người ta đã nhầm mình với gái bán hoa và mặc cả về thân xác mình. Lúc ấy mình là một đứa bé con, thế mà những kẻ dâm ô phóng đãng kia cũng không chừa. Trên đời này có bao nhiêu gái bán hoa vừa nứt mắt như mình không biết. Thế thì tình yêu, những khát vọng khôi nguyên của một kiếp người sẽ tàn úa còn đâu.

Mình vẫn bước đi... Những ý nghĩ đau xót lẫn lộn. Cuối cùng mình quay lại lấy xe đạp trở về nhà. 

 

 

Anh Khánh về nhưng không đến chỗ mình chơi. Mãi mấy ngày sau, mình có nghe mấy bạn trong trường nói, mình mới đạp xe đến nhà. Lẽ ra mình đã không làm như vậy, anh và mình đã từng thân thiết đến thế, không biết vì lý do gì mà thành ra xa cách. Mình vừa nuối tiếc cái chuỗi ngày dĩ vãng ấy, lại vừa tức anh. Chẳng lẽ bây giờ anh cao sang rồi ư? Anh coi mình là một cô bé không xứng đáng với anh ư? Mình cố gắng gạt bỏ ý nghĩ nhỏ mọn đó. Mình vẫn đến thăm anh. Mình muốn nhìn thấy anh, anh của ngày mình đưa tiễn. Anh đâu có biết rằng, trong những ngày đầu tiên ấy, mình đã buồn biết bao. Mình dõi theo từng ý nghĩ của anh từ phương xa. Mình tin tưởng về một tình cảm vượt qua những biên giới… Những đêm bất chợt tỉnh giấc, mình lại như thấy từ trong sâu thẳm bóng tối – từ một nơi xa xăm nào, có đôi mắt anh nhìn mình.

Nhà anh kia rồi, đã khá lâu mình không đến. Bố mẹ anh chắc cũng không còn mong mình nữa.

- Cháu chào bác!

 Mình lấp ló sau cánh cửa căn phòng tập thể.

- Cháu Ngân à, vào đi cháu. 

Mình bước vào.

- Bố mẹ cháu khoẻ không? - Mẹ anh hỏi giọng sôi nổi.

- Dạ, bố cháu vẫn bình thường ạ. 

Mình không thấy anh đâu, cũng không thấy bác nhắc đến tên anh. Cuối cùng, mình tỏ ra vui vẻ, hỏi:

- Anh Khánh mới về phải không bác?

 Mẹ anh nói như không có chuyện gì:

- Khánh nó mới về, hôm nay đi chơi với bạn rồi. Sớm thấy Ngọc đến rủ đi đâu đó.

Mình ngồi một chút, hỏi chuyện bâng quơ. Rồi gương mặt mình nóng lên. Dường như có gì nóng hổi đang dâng lên trong lòng. Mình chào mẹ anh bước ra ngoài. Trên đường về mắt mình rơm rớm nước. Mình nghĩ anh đã thay đổi và từ nay mình sẽ cắt đứt với anh. Mình có phải đến với anh để van xin một tình yêu đâu. Mình cần một tình bạn. Chỉ thế thôi. Chẳng lẽ anh đã nói với mình những lời thân yêu đẹp đẽ, đã cùng có những kỷ niệm và những khát vọng học trò tươi rói đến nhường ấy, thế mà rồi anh quên. Hay anh nghĩ nhà mình vừa gặp tai hoạ. Anh không muốn dính líu gì đến con gái của một gia đình có người vừa từ trại giam về.

Càng nghĩ mình càng thấy anh sao mà nhỏ bé và vô nghĩa biết bao. Từ xưa, mình đã không dễ dàng trò chuyện giao lưu với mọi người. Mình sợ phải tiếp xúc với những kẻ lạt lòng, những kẻ rỗi hơi ngồi lê đôi mách. Mình chỉ có thời gian  để học và ngoài ra trò chuyện với một vài người thân thiết. Mình đã tin tưởng và quý mến anh. Nhưng bây giờ, mình thấy anh cũng không hơn gì những kẻ tầm thường giả dối, những kẻ nông cạn kia là bao.

Mình trở về nhà mà mặt mày vẫn không tươi tỉnh lại được. Mẹ đi làm. Bố ngồi một mình trong bóng tối mà không bật điện lên. Mình nhìn bố thật lâu. Dường như bây giờ với bố những vui buồn chỉ thoáng hiện lên rồi tắt ngấm. Bố ngồi đó, như một pho tượng, có lúc trơ ra như thể linh hồn đã biến đi đâu. Lại có lúc lẫn lộn chuyện này với chuyện khác, người này với người kia. Gương mặt bố trông có phần đầy đặn hơn xưa. Nhưng bố đã trở thành một con người khác. Rất khác… Bao nhiêu điều bố đã mắt thấy tai nghe. Bao nhiêu điều bố đã học hỏi được trong cuộc đời đầy thăng trầm vất vả, bao nhiêu tình yêu và kỷ niệm… Bây giờ không ở lại trong tâm trí bố nữa mà dường như đã biến mất một cách vô cùng bí ẩn.

Mình muốn truy tìm điều oan nghiệt nào đã làm nên sự khủng khiếp ấy ở bố. Nhưng kiến thức thì mênh mông, mà hiểu biết của mình thì bị giới hạn. Mình đọc hết sách này sách khác để tìm hiểu nhưng cũng chẳng thoả mãn được. Thì biết làm sao… Y học hầu như đang bó tay trước căn bệnh khủng khiếp này. Có nhiều hướng nghiên cứu được mở ra. Chủ yếu là hướng tiếp cận bằng hoá dược và một hướng mới từ con đường của tế bào học… Dù sao tất cả vãn còn dang dở, ngổn ngang...

Càng ngày mình càng thấy như có một sức nặng đè nghiến xuống cuộc đời mình. Lúc khác mình lại thấy như có một sợi giây thòng lọng đang thắt vào cổ mình. Mình thấy mỏi mệt, ngạt thở, thấy đau đớn và muốn vùng vẫy. Nhưng một cô bé con như mình thì có thể làm được gì cơ chứ?  Ý nghĩ ấy hành hạ, giằng xé mình.

Suốt cả buổi chiều hôm ấy mình ngồi trong buồng khóc. Không vì lý do nào cụ thể. Tại mình thấy cảnh nhà quá buồn. Thương bố một đời vất vả, không nghỉ ngơi bỗng nhiên bị bệnh. Bất lực trên con đường nghĩ về tương lai và căm ghét thói đời độc ác, nhạt nhẽo… Đến tối thì mẹ cũng về. Mẹ mua sẵn một ít đậu phụ và rau. Mẹ và mình vừa nấu cơm vừa nói chuyện vặt vãnh. Rồi mẹ hỏi mình, giọng như tình cờ:

-Khánh nó về rồi đấy, con biết chưa?

 Tự nhiên mình thấy nghẹn trong cổ. Mình không nói gì, chỉ gật đầu tỏ ý mình đã biết. Mẹ hình như hiểu được tâm trạng mình nên nói lảng sang chuyện khác. Khi dọn cơm, bố mẹ và mình ngồi vào mâm. Bố ngồi ăn, gương mặt không tỏ ra buồn, hay vui.  Tỉnh thoảng bố cũng hỏi một câu gì đó và mỉm cười, nhưng nụ cười tan nhanh còn lại một nét vô cảm trên môi. Chẳng thà bố cứ trầm lặng ngồi im mình còn đỡ đau xót hơn là những cử chỉ mà hầu như chỉ còn là vô thức ấy.

Ăn cơm xong, mẹ tắm cho bố còn mình dọn dẹp mấy thứ vặt vãnh trong nhà. Mình vừa làm vừa nghĩ ngợi. Hết buồn cho thân phận bố, trong óc mình lại bảng lảng hình ảnh của bà nội và những câu chửi rủa cay nghiệt ngày xưa. Từ hồi mình lớn lên, có ý thức đến giờ, bao giờ mình cũng thấy mẹ chỉ biết chăm chút cho gia đình mà không bao giờ tơ tưởng điều gì khác. Mẹ yêu và thương bố vô cùng. Ngày xưa mẹ làm quần quật ở công ty đá từ sáng đến tối mịt chỉ để nuôi mình, cả ông và bà nội. Bố thì đi biền biệt… Ngay cả sau này, khi bố gặp vận hạn bị bắt, hay bây giờ bị bệnh không làm trọn chức năng của người chồng, vậy mà mẹ chỉ một mực thương chồng. Hàng ngày có miếng gì ngon mẹ đều dành cho chồng, cho con. Mẹ tắm cho bố.  Giúp bố uống thuốc và dẫn bố đi tập thể dục các buổi sáng. Ở mẹ lúc nào cũng toát lên một tình yêu chân thành không giới hạn. Một sức chịu đựng gần như vô tận. Vậy mà… Trong óc mình lại hiện lên gương mặt dữ dằn của bà nội và những câu nguyền rủa: “Đồ loạn luân”. Câu chửi hiểm ác ấy đã có lúc như một lưỡi dao đâm vào tim mẹ. Chính mắt mình chứng kiến, lần đầu tiên bà nội chửi mẹ câu đó, mẹ đang đứng ở giếng, buông rơi giây gầu và ngồi thụp xuống. Mặt mẹ tái xám. Mình lúc ấy còn bé tý nhưng đã biết chạy lại bên mẹ, dìu mẹ vào nhà. Mẹ không nói lại với bà một lời nào, nhưng mấy hôm liền mặt mẹ như tắm trong nước mắt. Khi ra khỏi nhà, mẹ lấy nón che khuất mặt. Cả làng ai cũng lén nhìn mẹ rồi buông những tiếng cười khinh mạn, khoái trá.

Sau này, mãi sau này khi mình đã lớn… Mình mới hiểu ra rằng, đó là một căn bệnh điên, một sự ám thị. Khốn nỗi, con người có ai hiểu cho nhau đâu. Người ta toàn lợi dụng những lúc khó khăn trong cuộc sống của người khác để dẫm đạp lên cuộc đời họ, để làm cho họ đau đớn.

Tiếng gõ cửa cắt ngang dòng hồi tưởng của mình. Dù không hoàn toàn tin chắc nhưng mình có linh cảm Khánh đang đứng ngoài khung cửa kia. Mình chập chờn nhớ lại một ngày đã xa, ánh mắt Khánh nhìn mình một lần cuối cùng trước khi quay đi trong cái buổi chiều thu ở sân bay hai năm về trước. Bây giờ chắc là Khánh cao lớn lắm. Có thể trắng trẻo nữa chứ. Đôi mắt thông minh và cái miệng cười có duyên… Những kỷ niệm cứ sôi lên làm mình bồi hồi…

Mình đứng sững trước cánh cửa lâu đến nỗi mẹ phải nhắc: “ Con mở cửa đi chứ”. Mình lấy hết can đảm mở ra. Nhưng mình chỉ kịp nhìn thấy tấm lưng của một người đàn ông đang bước dần xuống cầu thang. Mình chưa kịp khép lại thì người ấy đã quay lại. Khánh! Đúng là Khánh rồi…  Tự dưng mình đứng như trời trồng và hai dòng nước mắt ứa ra. Khánh đến gần, vẫn gương mặt thân yêu ngày xưa nhưng sao bây giờ nó có vẻ điềm tĩnh, lạnh lùng và xa cách đến vậy. Khánh cất giọng:

- Ngân!

 Mình đóng sập cửa lại:

- Anh về đi.

 

 

Tác giả Thiên Sơn

 

Vụ án đã gây ra cho gia đình mình những khổ đau ghê gớm đó ngày càng đi vào im lặng. Bố nhận được quyết định nghỉ mất sức lao động do ông giám đốc mới ký và cơ quan của bố có nhiều cải tổ. Ông Huỳnh vẫn bị bắt giam và điều tra. Nhưng một buổi sáng, có một nhân viên phòng hành chính đến công an cứ nằng nặc đòi khai rõ sự thật. Công an hỏi chị ta :

- Sự thật về vấn đề gì?

 Chị ta trả lời:

- Về việc ông Huỳnh ám hại ông Vệ.

Đến các điều tra viên cũng phải ngạc nhiên về chuyện chẳng khác gì bịa ra đó. Theo lời khai của chị ta, ông Huỳnh đã biết rõ căn bệnh mất trí nhớ của ông Vệ, nhưng cố tình giữ ông Vệ lại công tác và giao nhiều trọng trách… Rồi bí mật sai chị ta theo dõi, sửa chữa, đánh tráo những số liệu để tham ô một khoản tiền lớn. Sau đó, ông cho người đánh cắp toàn bộ giấy tờ và vu cáo ông Vệ tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa và tìm cách phi tang tài liệu để xoá mọi bằng chứng…

Vụ án có vẻ rắc rối hơn nhiều nhưng mình cũng không buồn đi sâu vào chi tiết nữa. Điều làm mình kinh tởm là, tại sao ông Huỳnh, một người thân thiết và gắn bó với bố mình cả chục năm trời lại có thể lợi dụng bệnh tật của ông để đưa ông vào tròng, hòng mưu lợi bất chính. Mình nói với mẹ:

- Con muốn đến đốt cháy nhà ông Huỳnh. Đúng là đồ đểu cáng.

 Mình nói cho có vẻ vậy thôi chứ cái bộ dạng của mình thì làm được gì. Vậy mà mẹ cũng lấy làm hốt hoảng:

- Thôi con, người ta làm thì người ta chịu. Với lại, bác ấy cũng đã bị công an bắt rồi.

Mình lại nói như thét lên:

- Nhưng vì ông ấy mà cả gia đình mình suýt nữa thành tan nát. Bệnh tình của bố cũng vì thế mà nặng thêm đến nông nổi như hôm nay. Con thấy kinh tởm ông ta, thế mà nhân danh tình cảm đồng chí anh em.

 Mẹ không nói gì mà chỉ thở dài.

Mình nhớ có lần bố mình về nhà, tỏ ra vui hơn mọi ngày. Đêm  bố mẹ mình nói chuyện với nhau rất khuya. Mình nghe trộm được bố nói:

- Anh Huỳnh bảo sẽ tiến cử anh làm giám đốc khi anh ấy về hưu. Anh cũng ngại, nhưng anh tin là mình có năng lực.

Chuyện đó chỉ thỉnh thoảng lại hiện lên thoáng qua trong đầu mình, cho đến khi bố bị bắt mình đã nghi ngờ có âm mưu gì đây. Sao ông Huỳnh lại dễ dàng công khai sự ủng hộ với bố mình đến vậy. Hoá ra, tất cả những cử chỉ thân thiết, gần gũi cũng chỉ là trò mèo giả dối để qua mắt mọi người, thực hiện một âm mưu đen tối mà thôi.

Không ngờ chuyện mình bị thi rớt trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc lại âm ỉ buồn cho nhiều người đến vậy. Xưa nay, mình chưa bao giờ thất bại trong những kỳ thi quan trọng. Mọi người nói rằng mình có một ngôi sao may mắn và một ý chí vững như thép. Nhớ lần thi học sinh giỏi toàn thành phố cách đó vài năm mình bị lên một cơn sốt cao, đêm hôm trước khi thi mình còn phải uống thuốc và nhờ bác sỹ khám. Vậy mà hôm sau, thân hình gầy gò, gương mặt bừng đỏ vì sốt, đầu đau như búa bổ, mắt nhìn lờ mờ, dáng đi liêu xiêu, mình vẫn bước vào phòng thi. Kết quả thật bất ngờ, mình đạt giải nhất toàn thành phố. Còn bây giờ, mọi điều không lặp lại.

Mình cố vượt lên trên thất bại để bước vào kỳ thi đại học sắp tới. Mình đã chọn ngành hoá học. Mình quyết thi điểm cao và sẽ đi nước ngoài. Mình mong muốn sẽ chế ra được thứ thuốc chống lại căn bệnh hiểm ác mà bố mình đang phải gánh chịu. Mình lao vào học từ sáng đến đêm, từ khuya đến sáng. Đến nỗi mắt mình bỗng dưng mờ đi, nhìn vào cái gì cũng thấy chói gắt rất khó chịu. Nhưng mình không nản chí… Mình quyết làm cho bằng được…

Không biết bao nhiêu lần mình nằm mơ thấy mình mặc chiếc áo choàng trắng trong phòng thí nghiệm. Mình đang chế ra thứ thuốc chữa căn bệnh của bố mình. Rồi mình lại thấy hiện ra trong lờ mờ sương khói gương mặt bố đang cười hồn nhiên. Một nụ cười đẹp và trẻ trung đến nỗi mình phải thốt lên:

- Trông bố đẹp và trẻ như thanh niên ấy.

Khi tỉnh dậy, mình nở nụ cười. Một giấc mơ tươi rói và đẹp.

 

Kỳ thi đại học diễn ra sau những ngày học hành mệt nhọc. Nhưng tối hôm trước nhà mình lại nhận được giấy mời đến dự phiên toà xử ông Huỳnh và một số cán bộ ở cơ quan bố tại toà án thành phố. Mình lại bị sôi tiết lên. Những ý nghĩ dồn dập lại xoáy vặn tâm hồn mình.

Sáng hôm ấy mẹ dậy sớm, mẹ nấu cơm cho mình ăn và đèo mình đến tận trường thi. Mẹ bảo với mình:

- Con đừng nghĩ ngợi lung tung, cố mà thi. Phiên toà họ muốn xử thế nào thì tuỳ họ, chẳng có liên quan gì đến nhà mình nữa.

Mình gật đầu bước vào phòng thi. Mình làm thế thôi chứ thực tình vẫn muốn có mặt ở phiên  toà để chửi vào mặt ông Huỳnh, đồ gian xảo khốn kiếp, ám hại cả những người đã từng thân tín và coi nhau như anh em. Cuối buổi sáng mình quay ra đã thấy mẹ đứng đợi sẵn. Mắt mẹ nhìn mình đầy lo lắng:

- Thế nào con, làm bài tốt không?

 Mình gật đầu.

- Cũng tạm thôi mẹ ạ.

 Mẹ lại đèo mình về. Ăn trưa và nghỉ ngơi xong mẹ lại đèo mình đến trường. Mình hiểu được tình cảm của mẹ. Và mình cũng biết rằng kỳ thi này quan trọng hơn hết, vì nếu không đỗ, cuộc sống của mình có thể đi theo hướng khác. Mình cũng đặt mục tiêu rất cao, mình nhất định phải đạt thủ khoa và sẽ đi nước ngoài học. Mình muốn đến Liên Xô hay một nước đông Âu, hoặc tây Âu nào đó…

Trưa hôm sau, khi mình thi xong thì cũng là lúc mẹ báo cho mình ông Huỳnh bị xử tù bảy năm. Mình nghĩ, thế là đáng đời. Chỉ có một điều đã thành vết thương lòng vẫn hay lướng vướng trong tâm khảm mình là tại sao những người anh em đồng chí lại hại nhau. Thế thôi. Mình về nhà, thấy bố vẫn ngồi im lặng. Mẹ hỏi mình có nên nói chuyện xử án cho bố biết không, mình nghĩ, bố biết lại chỉ thêm đau lòng, một vết thương được khơi lại, nhỡ bố nặng thêm thì khổ nên bảo “Thôi đi mẹ ạ”.

Càng ngày mình càng thấy căn nhà tĩnh lặng và tẻ nhạt nên bảo mẹ nên mua một con mèo. Ngày trước cả nhà đi vắng hết, không ai cho nó ăn, chứ bây giờ, lúc nào cũng có người ở nhà, nếu có con mèo có lẽ sẽ vui cửa vui nhà hơn. Mẹ đồng ý ngay. Hôm sau mình và mẹ đi chợ mua một chú mèo tam thể, một phần lông rằn, phần kia hung hung và phần kia thì trắng.  Mình tỏ ra đặc biệt thích chú mèo này. Trông gương mặt chú rất hiền, đôi mắt trong xanh. Lúc chú chạy nhảy đùa vui với cái đuôi của mình, lúc lại nằm khoanh tròn sưởi nắng ngoài ban công. Những lúc mình đi đâu về, chú ra tận cửa đón, dụi một bên người vào chân mình. Hàng ngày mình cho chú ăn, và mình cũng cảm nhận được tình cảm của chú với mình.

Không ngờ chú Mèo đã mang đến cho nhà mình một niềm vui khác thường. Có hôm chú hết chạy từ chỗ mình đến chỗ mẹ, rồi lại sang chỗ bố. Chú đùa giỡn. Chú hoạt bát, nhanh nhẹn lạ thường và đã mang đến cho mỗi người nét hồn nhiên, sự vô tư như con trẻ. Cứ đi đâu vài hôm là mình lại nhớ đến chú mèo. Tình cảm đơn sơ và tự nhiên của con vật cũng có thể làm cho mình thấy ấm lòng hơn. Cũng chính vì vậy mà mình hay nghĩ đến một nghịch lý, con vật này chắc sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện phản bội chủ nó để mưu toan lợi lộc gì… Sao con người lại có thể dễ dàng ám hại nhau vì những món lợi trước mắt. Sao con người lại nhỏ bé, ích kỷ, tồi tệ như vậy. Sự phản trắc của con người dường như đã thành một thuộc tính đi cùng với bản thân sự tồn tại của nó.

 

Để giải trí, mình có thói quen đọc những cuốn sách về chiến tranh, về các vị tướng lĩnh. Nói chung, tính cách mình hình như giống con trai hơn con gái. Ngày xưa, có lần mẹ nói: “ Bà mụ nặn nhầm.” Mình thì không nghĩ vậy, phụ nữ cũng cần có cá tính mạnh mẽ chứ. Con người, suy cho cùng thì phải xây dựng cho mình một tư duy, một diện mạo. Tóm lại, mỗi con người cần được tôn trọng cá tính riêng. Nhưng ở xứ ta nhiều người không làm như vậy, qua những gì mà mình biết, thậm chí người ta đang tìm cách tiêu diệt mọi cá tính, hoặc ít ra là áp chế nó, làm cho nó không có điều kiện phát triển. Mình nhớ lại lời ông Hoài Thanh, một nhà phê bình thơ nổi tiếng có nói đại ý rằng, những ràng buộc hàng mấy mươi thế kỷ đã tạo ra những vui buồn giống nhau, những công thức định sẵn. Ngay cả sau này, những năm năm mươi, sáu mươi của thế kỷ hai mươi, vẫn còn có cảnh “ Đem bục công an đặt giữa tim người”. Mình thì mình không chịu. Mình thấy dù khó khăn nhưng mỗi con người cần phải xác lập nhân cách của mình và xã hội nếu đích thực là văn minh thì phải tôn trọng những cá tính đó.

  Những cuốn sách về chiến tranh đã làm cho mình suy nghĩ nhiều về bản tính thù nghịch và phản trắc của con người. Từ những cuộc chinh chiến trong lịch sử cổ đại như trận chiến Thành Tơ roa đến sự phiêu lưu kinh khủng của Alexander. Từ thói kiêu ngạo, đến cái chết của Caesa… Rồi Napoleon, Hitle… Cả ở phương đông nổi tiếng với những lý thuyết nhân văn mà sừng sững trong lịch sử những tên bạo chúa như Tần Thuỷ Hoàng, hay Tào Tháo… Trung Hoa như một cái máy chiến tranh xay thịt người hàng mấy mươi thế kỷ. Rồi nữa, những cuộc chiến tranh giữa phương Đông và phương Tây… Càng ngày càng lan rộng, càng thảm khốc. Lịch sử nhân loại trải qua những cuộc tắm máu liên tục, bi thảm kéo dài. Bình yên trên trái đất này sao mà nhỏ nhoi, sao mà mong manh.

Mình không thể không đọc và không suy nghĩ về đất nước mình. Tổ tiên mình từ xưa đã dạy con cháu sống phải giữ lấy đức sáng cho đời sau. Nhưng rồi đất nước mình có mấy khi được yên bình, hạnh phúc. Hết những cuộc xâm lăng của ngoại bang lại đến lúc những người trong một nước, trong dòng tộc đánh giết lẫn nhau.  Câu chuyện ám ảnh mình nhất là án tru di tam tộc đối với Nguyễn Trãi. Đó đâu còn là chuyện của những tên gian thần. Sao dân tộc mình đã sinh ra những kẻ man rợ dám làm những điều kinh khiếp như vậy trong lịch sử mà chẳng cần đoái hoài đến hậu thế sẽ nghĩ chúng ra sao?

Hôm thi đại học xong mình mới có thời gian đến nhà thầy Luận chơi. Với mình, thầy là một người thân thiết. Suốt cả năm lớp  mười, mười một mình được thầy trực tiếp bồi dưỡng. Và trong ba năm học cấp ba, bao giờ thầy cũng theo dõi sát từng bước tiến trong học tập của mình. Mình đã gặp ở đó một cụ già chừng tám mươi tuổi. Ông cụ xưng tên là Trí. Cụ nói cụ là một nhà nghiên cứu kinh dịch. Mình hiểu thế nghĩa là cụ đang nghiên cứu sự xoay vần của thế thời, của trời đất. Nói thế có vẻ to tát, nhưng chung quy lại, chủ yếu cụ nghiên cứu cái cách hành xử làm sao để người quân tử không bị chém đầu. Râu tóc cụ trắng xoá. Gương mặt toát lên sự tinh anh lạ lùng. Cụ kể về bao nhiêu câu chuyện thương tâm trong lịch sử Trung Hoa và lịch sử phong kiến Việt Nam suốt mười thế kỷ… Mình nói với cụ:

- Nhưng đó là chuyện cũ rồi cụ ạ. Chẳng lẽ thời nay, cụ không tìm ra những vấn đề mới hơn hay sao?

 Cụ già nhìn mình vẻ rất ngạc nhiên. Rồi cụ cười… Cái điệu cười sao mà thâm thuý và buồn.

- Cháu bảo những chuyện ông đang làm là đã cũ rồi ư?  Cháu còn nhỏ quá không hiểu gì hay vừa nứt mắt ra đã quen khinh suất? Đừng nói đến các bậc thiên tài kiệt xuất vội, những người thật thà liêm chính, tài còn mọn, đức còn hèn cũng có thể bị lưỡi gươm của sự đố kỵ, lòng phản trắc chặt ngang người lúc nào không biết. Đó đâu phải là chuyện xưa, nó là chuyện hôm nay và cả sau này nữa.

Mình nghe cụ Trí nói mà thấy lòng e ngại. Sự thực là như vậy ư?  Mình lại nói:

- Cháu cảm giác như  cụ là một hậu duệ của Nguyễn Trãi còn sót lại.

 Cụ già vuốt râu nhìn trân trân vào mình không chớp mắt. Chết thật, mình chỉ là một con bé con vừa học hết lớp mười hai chứ có gì mà kinh động đến cụ ghê gớm vậy. Mình nói tiếp:

- Cái mặc cảm bị chém đầu, bị tru di tam tộc còn lớn lắm đối với dân tộc ta. Mấy kẻ gian thần ngày xưa giết Nguyễn Trãi là còn định hăm doạ các bậc hiền tài nhiều thế hệ sau nữa… Nhưng cháu nghĩ, cần phải vứt bỏ mặc cảm ấy đi.

 Cụ già trợn mắt, chỉ thẳng ngón tay vào trán mình:

- Con ranh này… Mày khinh suất quá… Chết… chết sớm cháu ạ…

Thấy cụ già có vẻ xúc động quá, mình xin phép thầy ra về. Suốt mấy ngày hôm sau mình vẫn cứ bị ám ảnh bởi lời nói của cụ già. Mình thấy mình thật là vô duyên và đáng trách. Mình trở lại nhà thầy Luận, xin thầy địa chỉ của cụ Trí. Mình muốn đến tận nhà xin lỗi cụ. Bởi vì, mình nói với thầy, chưa có ai chỉ với một lần nói chuyện mà đã gây cho mình những suy nghĩ lạ lùng đến thế. Thầy đồng ý giúp mình địa chỉ  của cụ và nói thêm:

- Hôm ấy em nói thế e xúc phạm cụ… nếu có đến cụ, nhớ lựa lời mà nói…

Mình đến nhà cụ, cũng chỉ là một căn phòng tập thể bé tý tẹo. Cụ cũng từng là một cán bộ lâu năm về hưu, cũng sống nghèo khổ như hầu hết mọi người làm công ăn lương. Thấy mình đến, lúc đầu cụ tỏ ra ngạc nhiên, nhưng ngay liền đó là một thái độ vui mừng hơn tưởng tượng của mình. Ngồi xuống chiếc ghế vuông nhỏ, mình nhìn khắp xung quanh, có mấy bức đại tự chữ Tâm viết cách điệu hình ngọn lửa cháy lên và hình ảnh của Đức Phật Thích ca.

- Ông ơi! Hôm trước cháu nói năng không phải làm ông phải bận lòng. Hôm nay cháu đến để xin ông lượng thứ.

 Cụ đưa cho mình cốc nước lọc, giọng cụ vui tươi ngoài sức tưởng tượng của mình:

- Ông quả không được bằng lòng bởi những lời nói của cháu. Nhưng, khi về nhà ông cứ suy nghĩ mãi… Hết ngày này đến ngày khác… Ông thấy mình đã sai lầm cháu ạ… Cháu đã đúng.

 Mình thực không hiểu điều gì đang diễn ra trong tâm trí của một cụ già kia.

- Quả thực, khi nghe cụ nói về những bất trắc, lòng đố kỵ của con người cháu cũng hiểu ra và thấy việc cụ làm cũng là cần thiết.

 Cụ Trí lại nói:

- Chính cháu chứ không phải bậc tài cao đức lớn, kẻ tao nhân mặc khách nào đã làm ông nhận ra cái nhược điểm, sự sai lầm, hủ bại của những công trình nghiên cứu của mình. Cái mặc cảm rơi đầu, tính vị kỷ sợ chết, thói vơ vét cho riêng mình… Những yếu tố đó đang huỷ diệt nhân cách của những nhà trí thức trong xã hội ta. Thế rồi người ta kết bè, kéo cánh, người ta ném đá giấu tay, người ta xu nịnh cấp trên… Người ta làm biết bao điều tham lam tàn ác chỉ vì cái vị kỷ cá nhân của riêng họ. Lẽ ra cần, rất cần những cuốn sách, những công trình tôn vinh những con người dám chết cho lẽ phải, những con người dám thách thức lại những sai lầm, hủ bại của cả một giai đoạn lịch sử thì ông lại đi viết những cuốn sách khuyên người ta khu xử thế này, thế khác... Ông đã đốt những cuốn sách của ông đi rồi… Ông sẽ viết về những gương anh hùng, những người dũng cảm… cháu ạ. Thời đại của cháu đã khác trước rất nhiều. Các cháu có nhân cách, dám nghĩ, dám làm, dám chịu… Đất nước ta có những thế hệ như thế, còn gì quý bằng.

Mình thấy lồng ngực căng tức vì xúc động. Mình thực không dám nghĩ, mấy câu nói, mang vẻ bất cần, có phần ngạo mạn tuổi trẻ đó lại đã tác động đến một con người lão luyện suốt cả một đời lao động và suy nghĩ. Ông lại nói tiếp:

- Cuộc sống rõ ràng đang ngày càng đi xuống. Ông cũng muốn làm một cái gì làm cho nó tốt hơn… Nhưng xem chừng, hiểu biết của ông quá hạn hẹp. Cuộc sống này đòi hỏi những đầu óc mới, những suy nghĩ mới…

Mình về đến nhà, nhưng hình ảnh cụ Trí vẫn in hằn trong tâm khảm. Một con người mãnh liệt, quyết đoán đến nhường ấy, khi thấy cần thay đổi thì phải thay đổi triệt để, khi một người nói mà thấy đúng thì nghe theo, không hề phân biệt tuổi tác. Sự khiêm nhường ấy, tấm lòng thành thực cầu thị và trách nhiệm trước cuộc sống ấy mới thực là đáng quý làm sao.

 

Nghe mẹ Khánh nói anh đi chơi với Ngọc, mình không biết đích thực người ấy là ai. Dù vậy, trong lòng mình dâng lên một nỗi ghanh ghét rất khó chịu. Nhiều lúc nghĩ cũng thật vô lý. Chắc Ngọc không biết gì về mối quan hệ giữa mình với Khánh. Con người ấy có khả năng câm lặng như một hang núi. Ai đã lạc vào cái thế giới đen ngòm và ngoằn ngoèo của nó đều khó lòng tìm thấy lối ra. Đó là một chuỗi bí mật và bất trắc.

Dù sao thì mình cũng thực sự nuối tiếc. Bao nhiêu thân yêu và chân thật. Cái tình cảm đầu đời run rẩy, trong ngần và non tơ ấy dành cả cho Khánh. Chỉ có điều dường như anh không hiểu được hết mà thôi. Mình cũng đã phải kìm nén, đã làm như không có gì trước anh. Không phải mình tỏ ta kiêu ngạo mà thực sự lúc ấy như có ma xui quỷ khiến mình đã làm như thế. Khi anh đã thực sự xa, mình muốn xoá nhoà hình ảnh ấy vào hư vô mà không tài nào xoá được…

Nhưng mình quyết thay đổi. Mình sẽ sống mạnh mẽ hơn. Sẽ trở thành một con người khác. Mình sẽ tiêu diệt cái hình ảnh của anh bàng bạc trong tâm khảm. Mình sẽ thoát khỏi những yếu mềm. Mình sẽ ráng sức chịu đựng trước những thách thức và những quyến rũ. Mình sẽ không khoan nhượng với mình. Mình thề như thế.

Khi Khánh trở lại nước Nga thì mình cũng nhận được kết quả thi đại học. Đúng như mình dự đoán. Kết quả của mình không cao. Mình đỗ vào đại học tổng hợp, ngành hoá học, nhưng mình không thuộc diện được đưa đi đào tạo ở Nga. Điều đó làm mình rất buồn.

Dạo đó mẹ cũng bắt đầu xin nghỉ hưu non. Mẹ bảo phải như vậy mới có thể làm thêm được chút gì, tích luỹ để chăm sóc bố và lo cho mình học đại học. Mùa hè năm đó mẹ xin làm thêm cho phòng khám bệnh của bác sỹ Mạnh ở tầng dưới. Mẹ giặt giũ giường đệm trong phòng. Nhưng mới được mấy ngày bác sỹ Mạnh nói với mẹ:

 - Em làm thêm một chút ở nhà vì bà con không có điều kiện đến bệnh viện yêu cầu mình giúp những bệnh thông thường. Mấy hôm nay thấy chị đến làm, họ nói em kinh doanh, làm bệnh viện chui, công an lại gọi em chất vấn. Chị thông cảm em phải dẹp phòng khám này thôi.

Mẹ không lấy tiền công mấy hôm làm ở chỗ bác sỹ Mạnh. Mẹ xin được chỗ ngồi bán nước mía ở bên lề đường, gần cổng trường cấp ba cách khu tập thể mình không xa. Mình xung phong ra quay nước mía giúp mẹ. Cứ nhìn cảnh mẹ phải gồng sức để nhích cái bánh quay kia, mình thấy cực nhọc và thương mẹ quá. Chỉ có điều bố ở nhà không có ai chăm sóc. Mẹ thường để bố ngồi trên giường, đóng cửa và đi. Nhưng không yên tâm, nên hai mẹ con thường phải thay nhau trông nom bố. Ấy vậy mà cái ông bảo vệ có hàm răng lúc nào cũng chìa ra phía trước, mặc cái áo xám với một cây dùi cui cứ ra đuổi. Không biết ông ta nhân danh trật tự phố phường gì, chỉ biết, mẹ cho ông vài nghìn thì ông ấy đi, nếu không thì mía sẽ bị thu hết, đưa về uỷ ban. Mình thấy buồn, mẹ làm quần quật thì cũng lãi được dăm nghìn, cho ông ta mất một nửa rồi còn đâu. Mình tỏ vẻ khinh bỉ ông ta, nhưng mẹ bảo, ông ấy cũng nghèo, thôi thì cho ông ấy chút tiền, kiến nhờ cá, cá nhờ kiến. 

Hết mùa hè, khi mình đi học thì mẹ bỏ luôn nghề ép nước mía. Lương của bố mẹ không dư dả gì, cả nhà phải sống kham khổ. Thỉnh thoảng bố lại ốm. Lại phải đi khám bệnh viện. Bảo hiểm y tế họ cho vài loại thuốc vớ vẩn uống mãi không khỏi. Có hôm mẹ hỏi bác sỹ kê đơn, sao đơn thuốc chỉ vài loại chẳng có tác dụng đáng kể, bác sỹ nói, đó là quy định. Tiêu chuẩn bố mình chỉ được uống loại thuốc như thế. Mình chất vấn, sao cho thuốc lại dựa vào chế độ, cấp bậc, không dựa vào thực tế bệnh tật. Bác sỹ nói đó là quy định, không thể làm trái. Mình cảm thấy thực là phi lý. Thế thì những người cán bộ bình thường, những người nghèo không bao giờ được chữa khỏi bệnh ư? Trách gì bố mình mang bệnh trong người bao nhiêu năm mà không dám cho ai biết, phần vì không có điều kiện chữa bằng thuốc tốt, phần vì sợ mọi người lo lắng. Thế rồi ngày qua ngày… bệnh cứ dần nặng lên.

Mẹ nữa, mình vẫn nhớ như in lần mẹ đi làm ở công ty đá về, máu ộc ra vì mệt mỏi quá sức. Từ đó mình từng cám cảnh cuộc sống nghèo đã huỷ hoại cuộc sống của mẹ như thế nào. Nhiều lúc nghĩ lại quãng đời thơ ấu mọi hình ảnh bảng lảng như trong một giấc mơ dài. Mình không hiểu sao, những điều huyền bí cứ chen lấn vào cuộc sống của mỗi người và người ta ràng buộc nhau với biết bao định kiến nghiệt ngã, vô lý. Đối với mình, cái miền đất thân yêu, đẹp đẽ gắn liền với một dĩ vãng xa xăm ấy còn là một cõi tù đọng, huyền bí như trong những câu chuyện hoang đường.

Hôm mình đến trường đại học để nhận lớp, mình bỗng thấy ra ở phòng học bên cạnh có một người quen quen. Mình đến gần và lặng lẽ quan sát từ phía sau. Người ấy quay lại nhìn mình ngỡ ngàng:

 -Mình đã gặp bạn ở đâu rồi ấy nhỉ, trông quen quen.

Mình cười. Người ấy lại hỏi:

 - Bạn ở Hà Nội phải không?

 Mình trả lời:

- Vâng! 

- Tên bạn là gì?

-  Tên em là Ngân ạ!

 Người ấy nói thật hồ hởi:

- Mình nhớ ra rồi, nhìn thấy bạn trên báo. Bạn học giỏi như thế… Nhiều báo đã viết bài về bạn.

 Nhưng rồi người ấy lặng đi:

- Hình như  mình còn nhìn thấy bạn ở đâu nữa kia…

Câu chuyện hôm ấy chỉ có vậy. Trước khi chia tay, mình hỏi:

-Tên chị là gì ạ?

 Người ấy trả lời:

- Mình tên là Ngọc.

Tự dưng mình hơi bối rối, tim mình như đập mạnh hơn. Chút thiện cảm ban đầu bị một cái gì vô hình ngăn trở. Ngày hôm sau, lại hôm sau nữa mình nhìn thấy Ngọc nhưng mình cố tình lảng tránh. Ngọc có vẻ bận rộn, cứ thấy đến trường gặp bạn bè một chút lại lên văn phòng khoa.

Một buổi sáng, mình đang đi từ cổng vào thì gặp Ngọc. Tự nhiên mình thấy ngài ngại, nhưng sắp chạm mặt nhau, chẳng lẽ không chào:

- Chào chị Ngọc.

 Không ngờ Ngọc lại tươi đến thế khi nghe mình chào.

- May quá, chị cũng đang có ý tìm em. Chị chào em, chị sắp đi học xa.

- Học ở đâu hở chị?

- Ở Nga! Matxcova.

- Ôi, Chị có biết anh khánh không? Maxcova thì gần với chỗ anh Khánh đấy.

- Chị có biết anh ấy, cũng tương đối gần em ạ.

- Vậy thì vui quá…

Nét mặt ngọc có phần rạng rỡ, không che dấu niềm vui, niềm kiêu hãnh. Mình nói như người hụt hơi:

- Thỉnh thoảng chị viết thư về cho em kể chuyện bên đó nhé.

-    Chúng mình sẽ giữ liên lạc với nhau...

Mình gật đầu, chia tay Ngọc. Mình nhớ lại lần đến tìm Khánh, mẹ anh đã nhắc đến cái tên này. Bây giờ thì mình tin chắc rằng, Ngọc và Khánh có biết nhau và họ vẫn thường liên hệ bằng thư. Mình thấy mạn mác buồn, nghĩ đến Khánh và những kỷ niệm...

 Mình cũng thấy bồi hồi nuối tiếc vì một cơ hội được đi học nước ngoài mình đã để mất.  

 

Buổi tối hôm ấy mẹ bảo: “Mai mẹ đi gọi hồn cho ông nội”. Mình ngồi im không nói gì. Mình không dám tin là ông đã chết. Mình cứ mơ hồ nghĩ rằng ông nội đi đâu đó. Mình thường tưởng tượng, ở một nơi xa, mỗi hoàng hôn ông lại nhìn về quê hương. Nhưng mình không thể hiểu được ông có nhớ mình không, và nỗi nhớ của người già có khác gì con trẻ. Ông yêu quý mình như thế, ông đã kể cho mình nghe biết bao nhiêu là chuyện. Vậy mà ông lại bỏ mình lại, ra đi không nói một lời gì…

Mình thở dài. Ký ức rồi cũng bị phủ mờ theo ngày tháng. Bây giờ hình dung lại những gì xa xưa đó, nó xa vắng, hư ảo thế nào ấy. Cả gương mặt của ông mình cũng không còn nhớ nổi. Mà lạ thật đấy, sao lại không có lấy dù chỉ một tấm ảnh của ông. Mình hỏi mẹ, mẹ chỉ lắc đầu, ứa nước mắt. Mình hỏi bố, bố chỉ ngồi im, gương mặt không có một phản ứng gì. Dường như bố cũng đã quên ông nội là ai. Mình hỏi:

- Bố có nhớ người sinh ra bố không?

 Bố cũng chỉ cười. Mình nghĩ, những vui buồn, những chuyện hiểu nhầm, những hờn giận… Tất cả lần lượt mất. Nhưng mình không tin, không dám tin ông nội đã mất ở đâu đó, giữa một chốn xa lạ.

Sáng hôm sau, mình theo mẹ đi. Mẹ bảo mình ở nhà trông bố, nhưng mình nói:

- Bố ở nhà chắc không sao đâu mẹ. Con muốn đi, nếu có linh hồn thật, chắc ông sẽ vui lắm khi có con bên cạnh mẹ.

Hai mẹ con đi khi trời chưa sáng. Đến bến xe Kim Mã bắt chiếc xe khách cũ về phía Ba Vì. Qua mấy đoạn đường ngoằn ngoèo uốn khúc vào một làng nhỏ, đơn sơ tìm đến nhà bà đồng Loan. Từ lâu mình đã nghe nói Ba Vì là đất thiêng, dường như ở đó có một sợi giây vô hình nối với bầu trời và thế giới cõi âm. Vì vậy, ở đây có một ngôi làng vẫn còn mang nhiều dáng vẻ cổ sơ và có nhiều người làm bà Đồng.

Nhà bà Đồng Loan lợp ngói, chia làm hai khu. Khu nhà ở và khu thờ thần linh. Trong khu nhà thờ, có các ban thờ. Bà Đồng Loan thực ra chỉ là một cô gái trẻ chừng ngoài hai mươi tuổi, đang mang thai. Gương mặt bà Đồng vàng ệch, sưng sưng và hơi méo mó. Giọng nói của bà Đồng eo éo có lúc lại trầm xuống, biến thái thất thường. Đôi mắt bà đồng lúc liếc ngang linh lợi, lúc đờ đẫn heo hút, mù mờ. Người đi gọi hồn xếp hàng dài ra tận sân. Lễ vật gồm vài nghìn bạc, thậm chí mấy bơ gạo, chai rượu, mấy quả trứng gà… Những thứ ấy được đặt vào chiếc khay, hay chiếc mẹt. Tất cả im lặng như nín thở, hướng đôi mắt kinh ngạc vào mỗi động tác của bà Đồng.

Mỗi lần bắt đầu gọi hồn, bà Đồng ngồi thẳng, chắp hai tay về phía bàn thờ khấn vái. Rồi bà tung hai đồng xu lên xin âm dương. Khi nào một đồng xu sấp và đồng kia ngửa thì bà ngồi lặng, nhắm mắt trong giây lát. Rồi bà mở mắt, nhìn vào người đi gọi hồn. Hồn là đàn ông, bà đồng nói giọng đàn ông, hồn là đàn bà, bà đồng nói giọng đàn bà. Và tuỳ thuộc vào tính cách của hồn mà bà đồng biểu hiện những động thái lúc vui, lúc buồn, lúc mạnh mẽ, lúc yếu đuối, lúc nhiệt tình, khi xa cách…

Mình nhìn thấy một bà già gầy gò, xanh xao, tóc trắng, da chảy xuống hai bên cổ cầm lấy cánh tay bà đồng mà gọi:

- Ông ơi, năm mươi năm xa ông rồi. Dưới đó ông có còn nhớ đến tôi và các con không, dưới đó ai nấu cơm cho ông, ai giặt giũ cho ông, ai lo cho ông mọi chuyện…

 Bà khóc nấc lên. Bà Đồng lúc này tĩnh lặng, đợi cụ già nói xong, cũng tỏ ra ân cần, âu yếm, nói giọng đàn ông thân mật:

- Bà không phải lo. Tôi bây giờ đã là quan ở dưới âm rồi.

 Cụ già lại nói:

- Thế thì tôi mừng cho ông, ngày xưa ông hào hoa phong nhã thế, ông lịch thiệp hơn đời thế… Nhưng ông có còn nhớ đến mẹ con chúng tôi không? Làm quan thì sướng lắm nhỉ, trên cõi dương cũng vậy. Bây giờ người ta chỉ cần làm cán bộ xã thôi cũng thóc lúa đầy bồ, quyền sinh, quyền sát ghê gớm lắm đấy…

  Bà đồng cầm lấy tay cụ già:

- Tôi không bao giờ quên mẹ con bà. Tôi đã chuẩn bị nhà cửa để mai sau vợ chồng ta đoàn tụ bà ạ.

 Cụ già lại khóc.

-  Tôi muốn đi theo ông thôi, thế gian bây giờ buồn lắm. Thằng Oánh, con trai của ông với tôi nó cũng tốt, nhưng nghe vợ. Dạo này nó từ tôi rồi, nó mang đất hương hoả bán đi. Nó bảo tôi ăn riêng… Thân già tôi còn tha thiết gì ăn với uống. Tôi đi gọi hồn ông, nếu ông về… Tôi nói với ông, tôi đã sẵn sàng xuống đó, ông đi đón tôi nhé… 

Lúc ấy bà đồng Loan lặng đi rồi ôm chặt lấy cụ già. Lúc sau, bà đồng Loan nhắm mắt lại, ngả người ra sau, há miệng ra. Rồi bà mở mắt ra, nhìn mọi người với con mắt bình thường. Cụ già lúc nãy còn chưa hết ngơ ngác vì sống lại cái giây phút mơ hồ của tình yêu và tơ duyên ngày trẻ. Bà lùi dần lại phía sau, nhường chỗ cho người kế tiếp, rồi vái ba vái lên ban thờ thần phật trước khi quay lưng đi ra ngoài.

Người kế tiếp, một cụ già đi gọi hồn con trai là liệt sỹ. Sau những động tác quen thuộc làm cho mọi người mường tượng có một linh hồn đã nhập vào bà Đồng, bà ta cất giọng đàn ông vẫn còn sung sức, láu lỉnh:

-  Bố… Bố dành thời gian để đến đây gặp con… Thực vô cùng quý giá. Hơn hai mươi năm rồi còn gì… Con phải xa bố mẹ và các em. Âm dương dù cách trở, nhưng con không ngày nào không nghĩ đến bố và các em. Vừa rồi con có gặp được mẹ… Mẹ xuống dưới này ngày đêm thương nhớ bố, nên mẹ khóc suốt…

  Cụ già như chồm lên:

- Con gặp được mẹ rồi ư… Bố tưởng cõi âm còn gò bó, mẹ con mới cũ chưa gặp được nhau.

 Bà Đồng lặng đi giây lát rồi bỗng cất giọng của một phụ nữ già nua, mỏi mệt:

- Ông ơi, tôi cũng cùng con về đây này. Tôi đã gặp được con rồi, tôi theo nó về đây để gặp ông. Ông vẫn khoẻ đấy chứ?

 Rồi bà đồng dùng tay sờ lên mặt cụ già.

- Ông phải giữ sức khoẻ đấy nhé.

 Cụ thốt lên:

- Thực là may mắn. Âm dương thăm thẳm, biết làm sao tìm gặp. Vậy mà hôm nay lại gặp được bà, đúng là một giấc mơ.

 Bà đồng nói bớt phần bi luỵ:

- Cõi âm bây giờ đổi mới rồi. Không nhất thiết cứ phải gò bó như trước nữa. Cõi dương và cõi âm bây giờ cũng có thêm những con đường để người sống và người chết liên lạc với nhau… Thôi tôi phải đi rồi…

Đến lượt mẹ…

Mình cảm thấy thời gian lúc đầu như ngưng đọng khác thường, nhưng sau đó thì trôi vùn vụt. Bà đồng sau mấy phút làm lễ và nhập hồn, nhích gần lại phía mẹ và mình. Bà giơ cả hai tay nắm lấy tay mẹ và tay mình. Giọng bà cất lên trầm trầm, truyền cảm, có nét gì na ná với giọng ông ngày xưa. Mình vẫn còn nhớ rất rõ, không mấy khi ông tỏ ra vội vã hay nổi nóng dù trước hoàn cảnh nào.

- Bố đó phải không!

 Mẹ thốt lên, nức nở. Bà đồng nhìn giây lâu cả hai mẹ con mình:

- Bố đây. Chính bố đây.

- Sao bố bỏ mà đi không nói cho mẹ con con một lời… Từ ngày bố đi, lòng chúng con héo hắt. Thương bố, giận cuộc đời độc ác, khinh bỉ miệng thế gian…

- Con không phải nói. Bố đi là một điều bất đắc dĩ.

 Rồi bà đồng nhìn sang mình:

- Cháu Ngân đã lớn thế này rồi à?

 Mình rưng rưng nước mắt. Một nỗi xúc động vô cùng lạ lùng xâm chiếm lấy mình.

- Ông ơi!... Cháu nhớ ông lắm.

 Mình chỉ thốt được có thế rồi nghẹn lại.

- Cháu cố gắng học thật giỏi nhé.

 Rồi ông quay sang mẹ:

- Bố gặp mẹ con dưới này rồi… Nhưng không ở được với nhau. Chồng con nó bệnh nặng, âu là mệnh nó, nhưng bố thương con và cháu. Thôi… Bố phải đi rồi…

 Mẹ gào lên:

-  Bố nói cho con biết, sao bố lại bỏ nhà đi? Mộ bố bây giờ ở đâu?

 Bà đồng bỗng nhiên trầm giọng, lời nhỏ dần như vọng lại từ cõi nào rất xa:

- Bố bị giải đi rồi… Bố bị tù… Bố bị oan khiên…

Lại đến lượt một người khác tiến đến bên bà Đồng. Lại vẫn những lời khấn vái và đồng xu tung lên…

Mình và mẹ lặng lẽ bước ra khỏi gian điện thờ, lòng dội lên những nỗi day dứt, tiếc nhớ xen lẫn trong mạch hồi tưởng lộn xộn và những câu hỏi dường như vô tận cuộn sôi lên. Mẹ cứ băn khoăn nhắc lại:

- Ông nói gì ấy nhỉ, bị oan… bị tù… Ông làm gì mà bị oan và bị tù. Cõi dương nhầm lẫn ngu si, chứ cõi âm làm sao mà có chuyện vô lý đó. Chẳng lẽ ông đã làm gì nên tội hay sao?

Mình không biết nói gì, lặng lẽ đi bên mẹ. Đối với mình, hôm đó là một ngày khác thường. Xưa nay mình đã được đọc những câu chuyện huyền thoại xa xăm, những chuyện tựa hồ như từ hàng nghìn năm kể lại, chứ khoa học thì tuyệt nhiên không công nhận những chuyện hoang đường ấy. Nhưng mình đã thấy, đã thấy cái huyền bí lớn lao, cái phi lý hiểm nghèo mà khoa học chưa dám đối mặt. Ôi, trí tuệ của con người sao mà nông cạn, sao mà hời hợt trước những điều hiển nhiên của cuộc sống…

Mình bước đi mà tâm trí như được đưa về một cõi ảo diệu xa xăm. Mình nghĩ, một ngày kia mình sẽ tiếp tục khám phá…

 

Bao nhiêu lần mình có ý định về thăm quê nhưng không thực hiện được. Bây giờ thì mình đang trở về với nó, mảnh đất thường vẫn hiện lên huyền ảo trong những giấc mơ xa vắng của mình.

Xuống khỏi ô tô, mình đi bộ qua một con đường hẹp, qua chiếc đò nhỏ trên dòng sông quê trong suốt. Mình bước bồi hồi trên lối mòn nhỏ ngoằn ngoèo dưới những rặng tre. Buổi chiều quê êm như cõi mộng. Những căn nhà lợp ngói âm dương thấp tè giữa vườn cây chen lẫn tiếng chim. Thỉnh thoảng có những túp lều tranh, những bà già ngồi bên hiên chải tóc… Những đứa trẻ lấm lem đất cát chạy nhảy trên một bãi cỏ rộng.

Những cảnh ấy vừa lạ, vừa quen như trôi trước mắt mình. Mảnh đất này đối với lòng mình từa tựa như điểm xuất phát một dòng sông, nơi bắt đầu một tình yêu… Không, không chỉ thế… Mình hiểu rằng còn hơn thế nữa. Mình sinh ra ở đây. Trong những căn nhà nhỏ đâu đây bố mẹ và ông bà mình đã từng sinh sống. Cảnh xưa đã khác đi nhiều. Nhưng mình cảm nhận được, nó chính là một phần máu thịt của mình. Ngày xưa sinh mình, mẹ đã chôn nhau dưới gốc cây kia… Mình đã khóc tiếng khóc đầu tiên, đã cười nụ cười đầu tiên, đã đi những bước chập chững… Tất cả từ chính mảnh đất này.

Không ai biết mình. Nhưng trên mảnh đất dường như đã trở nên hoang vu, vắng lặng này mình như thấy có bóng người đi lại. Mình như thấy có bóng dáng ông nội đi ra đi vào. Thấy bóng dáng đứa trẻ là mình thuở xa xưa ấy bám theo từng bước chân của ông. Thấy những lời kể chuyện của ông ngày nào. Và bà nội, bà ngồi đó, tóc trắng bay trong gió. Gương mặt bà đầy nếp nhăn. Những cơn chửi bất thần nhằm vào ông và mẹ. Và bố nữa chứ… Những lần bố về rồi lại đi. Những lần bố giận mẹ và mẹ khóc…

Mình thấy nước mắt chảy thành dòng không thể nào ngăn lại được. Mình lần lại con đường ngày xưa ông nội đã cõng mình những buổi hoàng hôn ra biển. Hoàng hôn mờ tím khép dần lại phía chân trời. Tiếng sóng dạt dào như một bản nhạc u hoài bất tận. Tất cả đã sống lại trong tâm hồn mình, những ký ức xa xăm, những kỷ niệm đã mất, những mơ ước đã bị xoá nhoà, những niềm vui và nỗi đau đã đi vào quên lãng.

Biết nói gì! Mình đứng khóc trước biển cho đến khi bóng tối khép dần lại. Mặt biển mờ đi trong cái không gian mỗi lúc một đen đặc. Mãi rồi mình mới chịu rời bãi cát, vòng theo con đường nhỏ, mò mẫm trong bóng tối đi bộ trên con đường lấp dưới những lùm cây đen ngòm tìm về khu tập thể công ty đá. Mình muốn tìm đến nhà Nhung. Chắc là Nhung vẫn còn ở với cô Tình. Mình dự định ngày hôm sau sẽ tìm đến nhà ông Hữu và hỏi thăm nhà Thuý.

Mình lần theo lối quen cũ, lần tìm đến căn phòng nhỏ của bố mẹ mình khi xưa. Một phần tuổi thơ của mình gắn với mảnh đất này. Mình nhìn vào nhà, bây giờ đã có điện. Bên trong một gia đình lạ đang quây quần bên bàn ăn. Một vẻ ấm cúng, tươi vui không hiểu sao đã làm cho mình vừa thèm thuồng, vừa ghanh ghét, vừa hờn tủi. Mình thấy cả tuổi thơ mình là một nỗi buồn dằng dặc. Chưa khi nào mình được hưởng cái cuộc sống đầm ấm, tươi vui trong gia đình. Dường như một định mệnh hắc ám đã giáng xuống những cuộc đời xung quanh mình, khiến nó trở nên trầm lặng, hiu hắt.

Mình bước đi. Nhà cô Tình kia rồi. Mình bước nhanh và đứng lại trước cửa. Nhìn vào trong, mình thấy một người đàn bà gầy gò đang ngồi chải và hong tóc. Dáng người, khuôn mặt và đôi mắt thì quen quen nhưng không có vẻ gì như cô Tình ngày xưa nữa. Ngày xưa, cô còn trẻ thế. Bây giờ đã già thế này sao.

- Cháu chào cô, cô có phải là cô Tình không ạ?

 Người đàn bà nhìn mình ngờ ngợ, không nhận ra. Mình hỏi:

- Cô có nhận ra cháu không?

 Cô Tình lại nhìn mình một lát rồi vừa lắc đầu khẳng định lại một lần nữa việc không nhận ra mình, vừa nói thăm dò:

- Hay là cháu Ngân!

 Mình tiến đến bên cô. Nước mắt mình ứa ra. Vậy là trong tâm trí của cô vẫn còn một cái tên của mình, dù cô không còn nhận ra mình nữa.

- Cháu đây!

 Mình ôm lấy cô. Cô cũng ôm lấy mình nhưng vẻ mặt đầy băn khoăn và ngơ ngác. Một thoáng bẽ bàng đến với mình. Nhưng cũng lúc ấy, cô ôm lấy mình càng chặt hơn. Giọng cô bị chẹn ngang bởi từng cơn nghẹn ngào:

- Cháu đã lớn thế này ư?  Bố mẹ cháu bây giờ ra sao?

 Mình cũng hỏi cô nhiều về cuộc sống của cô, về Nhung, về ông Hữu và những người thân thiết khác. Cũng lúc ấy, Nhung chạy từ hàng xóm về. Hai đứa ôm nhau mà không nói được lời nào.

Đêm đó mình ở lại nhà cô Tình. Mình và Nhung ngủ trên một chiếc giường hẹp, trải manh chiếu cũ. Hai đứa trò chuyện thâu đêm. Nhung hỏi mình về tất cả những gì đã xảy ra trong những năm tháng xa nhau. Cuối cùng mình hỏi Nhung về chuyện riêng tư, Nhung nói, nó sắp cưới. Việc học thì đành dừng lại ở lớp mười hai vậy. Ở đây, không có điều kiện để mơ ước một điều gì xa xôi. Chồng sắp cưới của Nhung là bộ đội vừa giải ngũ, anh ấy vừa qua ba năm làm lính.

Khuya, trước khi ngủ, mình hé cảnh cửa sổ và chợt ngỡ ngàng. Trăng! Trời ơi, đã lâu lắm rồi mình mới nhìn thấy trăng đẹp như thế này. Trăng tròn vành vạnh, như một tấm gương khổng lồ treo trên nền trời toả ra không gian màu trắng sữa. Thế là ký ức những đêm trăng trên biển và kỷ niệm về ông nội lại hiện về. Mình cứ nhìn trân trân vào vầng trăng, để cho tâm tư trôi dạt về một thời kỷ niệm. Rồi mình thiếp đi lúc nào không biết. Mình nghe thấy những lời thơ ông đọc, những mẩu chuyện ông kể… Ông cõng mình đi dọc biển, nói về cái thế giới xa xăm dưới đáy đại dương, những miền đất ở bên kia bờ biển…

Vết thương xưa lại cào xé trong lòng mình. Tại sao ông nội lại ra đi? Bao nhiêu câu trả lời cũng không làm mình bằng lòng. Tâm hồn ông thực là một thế giới khép kín không thể hiểu. Không biết đến khi nào có thể hiểu. Câu chuyện gọi hồn vừa rồi của mẹ mới nghe thì có vẻ hoang đường, nhưng sự thật, nó đã bật mở những điều bí mật, huyền bí dai dẳng không có cách gì có thể khám phá được. Và vì vậy, nó cũng cần thiết bởi nếu như con người không hiểu được những gì thuộc về những người thân yêu, không hiểu được những gì đã thực sự diễn ra trong quá khứ thì cũng khó lòng thanh thản mà đi về tương lai.

Dù sao, càng ngày mình càng nhận ra rằng, lối sống khép kín, mỗi người tự giấu kín những điều trong tâm tư, mỗi người tự biến thành một ốc đảo không phải chỉ riêng một số người như ông nội mình. Nó đã trở thành một lối sống chung giữa cái thời mà con người thường bới móc nhau, dùng sức mạnh của định kiến số đông để đè bẹp những tâm tư riêng. Lối sống ấy đã chuyển hầu hết những suy nghĩ vào cõi bí mật, con người cô độc và đầy bất trắc.

Qua câu chuyện với Nhung, mình biết cô Tình vẫn hàng ngày làm ở công ty đá vất vả. Cái nghèo và cả bệnh tật đang ngày càng hành hạ cô. Cái nghề đập đá này suốt ngày sống trong bụi đá nên rất nhiều người bị bệnh phổi và các bệnh về mắt. Có người bị bệnh phổi thỉnh thoảng lại thổ huyết. Có người quanh năm mắt đỏ, rồi dần dần bị mờ luôn. Từ ngày định lấy chồng mà gặp bất trắc cô không nghĩ đến nó nữa. Cô bảo, cố gắng kiếm đủ ăn và nuôi Nhung trưởng thành thế là vui rồi, thế là xong một đời.

Sáng hôm sau mình và Nhung đến thăm Thuý. Thế mà Thuý đã có con đầu lòng rồi đấy. Một bé trai kháu khỉnh. Trông Thuý mập mạp, khoẻ mạnh và tươi tắn. Chồng Thuý đi buốn bán khắp nơi, thỉnh thoảng mới về đưa cho vợ một ít tiền rồi lại đi tiếp.

- Anh ấy bảo, phải tìm một con đường khác, cứ ở mãi cái công ty đá này thì cũng chẳng có gì khác các cô các bác, cả đời nghèo và vất vả. Thậm chí có người ốm kinh niên không có đủ tiền thuốc thang nên đã tự tử.

 Hết chuyện gia đình, con cái lại nói về những kỷ niệm buồn xa xưa. Mình hỏi chuyện thằng Hậu bây giờ thế nào, có còn giữ cái giọng lưỡi ông cụ non độc địa thoá mạ người khác nữa không? Thuý bảo, nó bây giờ làm xã đội trưởng. Nghe nói hôm trước nó bắt được lũ trộm nên còn được khen thưởng khắp huyện nữa cơ.

Cuối cùng mình bảo Thuý đưa lại thăm ông Hữu. Mấy người công nhân già nua còm cõi ngồi trong phòng đang nhờ ông viết cho cái đơn gửi cơ quan chức năng đó xin được quan tâm đến mấy đứa con bị nhiễm chất độc màu da cam của họ. Một người nói:

- Cũng biết là khó lắm. Nhưng có bệnh thì phải vái tứ phương thôi. Mẹ tôi già đau ốm. Hai đứa con đều bị tật nguyền… Thôi thì cụ chiếu cố cho, cụ viết cho cái đơn hay bài báo… Cụ là nhà thơ cơ mà. Chứ chúng con thì từ bộ đội ra, đến giờ cũng chỉ là công nhân đập đá, nói ai nghe? Cũng có vài đứa bây giờ làm quan chức lớn. Nhưng gặp chúng khó quá. Đến cơ quan thì lính canh cửa trước, cửa sau, bắt xuất trình giấy tờ, rồi yêu cầu hẹn trước … đủ các loại nhiêu khê, rắc rối…

 Ông Hữu ngồi nghe trầm lặng, rồi ông bảo với mọi người:

- Tôi sẽ suy nghĩ, nếu có làm được gì giúp gia đình các chú và các cháu thì tôi sẽ hết sức làm.

 Mọi người lần lượt ra về nhường cho mình trò chuyện với Ông Hữu. Trông ông bây giờ không còn gầy gò, khắc khổ như xưa, mái tóc để dài ra và xếp theo nếp nhưng đã nhuốm màu bạc trắng. Ông vui khi mình trở về.

- Cháu rời đây đã chục năm trời, khi đi còn là đứa bé con, nay đã là thanh nữ, học thì giỏi, hiểu biết hơn mọi người, nhưng không quên những người bạn cũ, không quên mảnh đất sinh ra mình… Điều đó làm ông vui lắm.

  Mình hỏi ông về tình hình sức khoẻ, những chuyện ở quê hương và công việc sáng tác của ông. Nhưng mình bỗng thấy ông buồn.

- Ngày sung sức thì không được viết. Có viết trộm, viết lén để trong sổ tay thì cũng có người đóng vai kẻ trộm cướp mất, hoặc gây sức ép phải tiêu huỷ đi. Khi niềm hứng khởi đã mỏi mòn, cùn mằn đi thì người ta lại đổi mới, lại bảo viết. Nghề thơ có phải như đập đá, cố sức là làm được đâu. Tài năng ông đã hết rồi. Nhà thơ trong ông đã chết rồi…

 Ông nói nghẹn lại:

- Dân chúng làm sao có thể hiểu cho ông. Mấy vị cầm quyền làm sao mà hiểu được cái bi kịch thứ hai này.

Trưa hôm đó mình trở về Hà Nội. Trên chiếc xe ca cũ liên tục xả khói đen ra đường, mình gặp một người con trai hơn mình độ ba, bốn tuổi. Anh ngồi ghế bên cạnh, quay sang hỏi mình:

- Em về Hà Nội à?

- Vâng! Anh cũng về Hà Nội phải không?

 Người con trai không trả lời ngay mà nhìn mình một cách trầm lặng. Đôi mắt sắc, cặp lông mày dài đen nhánh hiện trên gương mặt thanh tú, vầng trán rộng.

- Anh học ở ngoài đó. 

- Anh học trường nào?

- Tổng hợp, khoa triết.

  Mình đã từng say mê đọc những tác phẩm kinh điển của triết học cả phương Đông và phương Tây, nhưng mình chưa hề quen biết với một người nào học triết học. Từ xa mà nghĩ, có lẽ họ là những người uyên bác, khắc khổ lắm. Nhưng không, bây giờ trước mặt mình là một người học triết học, trông anh thông thái nhưng không có vẻ khắc khổ. Và giọng nói của anh, một giọng nói trầm, dễ nghe, có sức cuốn hút chứ không đến nỗi khô khốc như mình thường nghĩ về những người học triết.

Trước khi xuống bến xe, anh hỏi tên mình và tự xưng tên anh là Toàn. Mình cho anh địa chỉ và hẹn sẽ có dịp gặp lại.

 

Thầy Phan là bậc đại sư của ngành hoá. Thầy được nhiều trường đại học ở Nga, Mỹ, Pháp và các nước khác mời đến dạy. Công trình của thầy mình đọc cũng nhiều, mình thầm cảm phục con người đã miệt mài mang lại những cống hiến lớn lao cho khoa học. Năm ấy thầy đã gần sáu mươi tuổi. Nhưng bài giảng của thầy luôn hấp dẫn, giọng nói của thầy vẫn trong trẻo, ấm áp. Song điều mình không ngờ là thầy lại ở một mình. Hôm đi dạy, hôm đi chấm luận án thạc sỹ, tiến sỹ, hôm đi hội thảo khoa học này nọ, nhưng khi về nhà, thầy lại tự tay nấu cơm, ăn một mình. Có hôm mình đến căn phòng nhỏ của thầy, cảm tưởng như không có một âm thanh nào từ cái náo nhiệt, bụi bặm của phố xá có thể lọt vào được. Mình đứng lặng trước ô cửa nhìn thầy miệt mài trên chiếc bàn xếp đầy sách và những sơ đồ, những quang phổ.

Thầy không thể biết được mình đã nghĩ những gì. Khoa học đã vắt kiệt thầy. Thế mà ngoài công việc ra, thầy không có lấy một giờ vui hưởng hạnh phúc gia đình. Cái buồn đến hiu hắt phủ vây lên căn phòng thầy ở, phủ lên cả cuộc đời thầy.

Mình gõ cửa, thầy ngước nhìn lên.

- Em chào thầy.

Thầy mỉm cười:

- Chào em.

 Một sự nhã nhặn và bình thản tạo nên trong lòng mình một niềm tôn kính. Mình cắm hoa hồng trắng và dọn dẹp giúp thầy mấy thứ lặt vặt cho căn phòng thêm gọn gàng, tươi sáng. Trước khi về, thầy cho mình mượn mấy cuốn sách, đó là những công trình khoa học mới công bố.

Nhiều lần hai thầy trò mải mê nói về những hướng nghiên cứu trên thế giới. Ngành hoá học đang càng lúc càng tác động sâu xa vào muôn mặt của đời sống con người. Nhưng cũng chính các nhà khoa học trong lĩnh vực này đã ngày càng không kiểm soát được việc sử dụng những công trình nghiên cứu của họ trong đời sống. Sự ứng dụng kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học nhiều khi chỉ hoàn toàn mang tính thương mại và trở nên vô nhân đạo. Mình đã kể cho thầy nghe những điều đã ám ảnh khủng khiếp trong tâm trí từ tuổi ấu thơ về các nạn nhân chất độc màu da cam Dioxin ở khu tập thể công ty đá. Những đứa trẻ vừa mới sinh ra đã bị quái thai, dị dạng. Có đứa đầu to, có đứa mặt mày lỗ chỗ những nốt đen, lại có đứa bị liệt vĩnh viễn chỉ nằm một chỗ, có đứa bị thiểu năng trí tuệ gương mặt lúc nào cũng thộn ra… Bố mẹ của những đứa trẻ đó đã đập đá suốt cả ngày, đến kiệt sức mà không đủ tiền thuốc thang, chăm sóc.

Tất cả những điều đó làm thầy lặng đi. Mình không nhớ đã mấy phút trôi qua. Gương mặt thầy trở nên căng thẳng. Thầy buồn và suy nghĩ. Mãi đến khi mình chào thầy ra về, thầy mới như sực tỉnh, tiễn mình ra tận cầu thang, thầy nói:

- Em sớm quan tâm đến số phận của con người. Em sẽ biết sống và làm việc một cách chân chính.

 Mình thầm cảm ơn thầy đã nói và nghĩ những điều tốt đẹp về mình. Và mình tự hứa với lòng mình, sẽ cố gắng làm được một cái gì đó cho thầy, để cuộc sống của thầy đỡ phần hiu hắt.

 

 

Toàn đến nhà mình chơi. Anh tỏ ra e ngại. Anh nói ít hơn lần đầu gặp nhau. Anh cũng hay nhìn mình từ phía sau. Vẻ không tự nhiên ấy làm mình có cảm giác như anh đã phải lòng mình vậy. Nhưng mình thì nghĩ đơn giản hơn. Anh đối với mình là một người bạn mới quen, chưa có gì thân thiết nhưng lại có chút thú vị. Mình không nghĩ như những cô bạn cùng lớp, cứ thấy ai đến là cho rằng người đó đang tán tỉnh. Thực ra thì tình cảm trai gái hết sức tự nhiên. Vẻ chân thành, giản dị có thể là điều tạo nên sự cảm thông, chia sẻ và một sự gắn bó bền chặt. Đối với Toàn, mình nghĩ anh là một người bạn. Mình không có ý gì khác. Hoàn toàn không có ý gì khác. Nhưng càng ngày tiếp xúc với anh nhiều hơn, mình nhận thấy ở anh một nỗi buồn sâu thẳm. Sự biểu hiện ra bên ngoài, dù chỉ bằng vài câu nói thoáng qua, nhưng mình hiểu rằng anh không bằng lòng với những gì đang diễn ra xung quanh.

Bữa đó, thấy anh buồn, mình nhận lời cùng anh đi lang thang. Mình hỏi anh về những dự định tương lai, anh bảo anh cảm thấy như đang đi vào một con đường cụt. Những gì mà anh đã học, mà trường đại học đã hướng anh suy nghĩ dường như đang càng lúc càng xa với hiện thực. Bằng những kiến thức, anh không thể giải thích được thực tại và dường như càng ngày càng thấy hiện tại phản bác lại những điều đang được khẳng định như những nguyên lý vững chắc. Anh đau đớn về điều đó. Càng ngày anh càng thấy phi lý. Tại sao anh cứ phải tụng niệm điều anh không tin là sự thật và trái ngược với sự thật hiển nhiên đang diễn ra sống động, ngồn ngộn xung quanh. Suốt cả buổi đi chơi, anh nói không nhiều. Anh hỏi han mình rất kỹ về những ước mơ và khát vọng tương lai. Anh tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh khó khăn của gia đình mình.

Khoảng một tháng sau anh lại đến thăm mình. Anh bảo:

- Anh đã suy nghĩ rồi, anh bỏ học thôi Ngân ạ.

 Mình ngạc nhiên:

- Anh nói gì cơ?

 Anh nhắc lại:

- Anh bỏ học.

 Mình như cuống lên:

- Sao lại thế? Anh học sắp xong rồi cơ mà?

 Anh im lặng giây lâu rồi nói, từng tiếng một:

- Anh thấy mình đã chọn nhầm con đường. Những gì anh đã học, đã suy nghĩ đã cho anh nhận thức rằng, nó mới vô nghĩa làm sao. Bố mẹ anh hàng ngày hàng giờ nhịn đói, bòn rút từng đồng tiền gửi cho anh ăn học, nhưng bù lại, anh chỉ lao vào những thứ thật phù phiếm, những thư lý thuyết rối rắm, và nếu tiếp tục theo đuổi nó, anh chỉ là một kẻ sống thừa. Rồi tương lai anh cũng chỉ là một kẻ vô dụng, bị đời khinh bỉ, ruồng bỏ.

Trong lòng mình một nỗi đau xót chà xát. Chưa bao giờ mình gặp một người tuổi trẻ có trí tuệ nào lại mang nỗi buồn héo hắt đến vậy. Anh như một cái cây bị héo. Nó có cái vẻ thảm thương khó tả. Nhưng rồi mình cũng có can đảm nhìn thẳng vào anh, nói như trách móc:

- Nhưng anh cũng phải tìm lấy một con đường thoát chứ. Anh bỏ học thì sau này sẽ làm được gì?

 Anh thở dài:

- Anh sẽ tìm được con đường. Nhưng bây giờ anh cần thời gian để quên hết những gì mình đã biết. Anh cần tẩy não. Thời gian sẽ là một thứ hoá chất hữu hiệu, anh tin vậy.

Dù không mấy khi anh kể lại chuyện thuở ấu thơ và những thành tích học tập của anh trong quá khứ, nhưng mình biết anh chính là người đã đoạt giải nhì trong cuộc thi toàn quốc môn văn. Anh cũng là người thi khối C vào đại học đoạt điểm cao nhất toàn quốc. Con người từng được ca ngợi trên báo chí, tưởng chừng là một con cưng của nền giáo dục, bây giờ cùn nhụt hết mọi ước mơ và ý chí. Đúng là một tấn bi hài kỳ lạ.

Ngày hôm sau anh ra xe về quê. Mình đến tận ký túc xá tiễn anh.

- Về anh sẽ đi làm đồng. Làm gì có chuyện làm triết học thì sang trọng hơn đi cày hả em?

 Mình không phản bác mà cũng không tán thưởng câu nói ấy của anh.

- Nhưng anh hứa với em là sẽ phải tìm ra con đường nhé. Anh phải tiếp tục tiến lên phía trước, người trí thức có trách nhiệm của mình trước cuộc sống.

 Anh nhìn mình ngỡ ngàng. Mình bỗng thấy ngượng vì một câu nói vẻ đao to búa lớn. Lúc sau anh nói tiếp:

- Có thể anh sẽ trở lại Hà Nội, cũng có thể sẽ đi học ở nước ngoài, và có thể anh sẽ không bao giờ từ bỏ nghề đi cày. Bây giờ, anh có trách nhiệm phải làm cái gì đó đỡ vất vả cho gia đình nữa.

Mình quay về trong lòng vương vất nỗi buồn và những ý nghĩ triền miên. Thôi, hãy gạt bỏ chuyện ấy… Mình tự nhủ nhưng lại không tài nào làm được như vậy. Ba tuần sau, mình nhận đước lá thư ngắn của Toàn.

“Ngân!

Anh đã về quê. Ngày ngày đi làm ruộng. Anh cố để không suy nghĩ, để quên hết những gì mình đã học, đã hiểu biết. Bố mẹ anh không được vui vì anh bỏ học, mất đi một niềm hy vọng và hãnh diện. Nhưng anh thì thấy khoẻ khoắn. Chưa bao giờ anh gắn bó với đồng ruộng như bây giờ. Vài tuần nữa, việc đồng áng tạm rảnh, anh sẽ đi buôn. Có nhiều thứ để buôn lắm. Vải vóc, quần áo, dược liệu và thậm chí cả máy móc… từ đường từ biên giới Lào, Campuchia sang nước ta. Anh nghe nói có nhiều người buôn lậu nữa chứ. Kể cũng thú vị nếu anh được thoả thuê vẫy vùng. Bao nhiêu năm rồi, anh bị nhốt trong cái đống giáo điều cũ kỹ và những ảo tưởng mông lung. Cuộc sống của anh thực chất là một sự lơ lửng, trên không đến trời, dưới không đến đất. Bây giờ thì khác rồi, anh phải thay đổi, phải làm chủ lấy cuộc sống của anh.

Vài dòng vậy cho em. Mong em hiểu cho anh. Cầu mong điều tốt đẹp cho em.

Toàn”  

Sự thực là bức thư ấy làm cho mình càng thêm khó hiểu về Toàn.  Mình không viết thư trả lời anh. Mình biết, mình không thể khuyên giải anh ta điều gì, nhưng mình cũng không thể hùa theo những ý tưởng của anh. Giữa mình và anh là một khoảng cách dài.   

Dạo này tình hình sức khoẻ của bố càng xấu đi. Cứ nhìn cảnh bố ngồi một mình lặng lẽ trong nhà, gương mặt một nửa chìm trong bóng tối mình lại nghĩ đến một pho tượng. Bố ít nói. Mỗi câu nói đều rời rạc, chẳng có logic, có đầu cuối gì cả. Mình cũng không hiểu nổi, bây giờ bố đang suy nghĩ gì. Tâm hồn và trí não của bố càng lúc càng bí ẩn, giống như tất cả đang chìm vào một đêm tối. Bao nhiêu kỷ niệm về cuộc đời, bao nhiêu khát vọng và tình yêu, bao nhiêu mộng mơ… Chẳng lẽ nó lại biến đi một cách dễ dàng như vậy? Mình tìm nhiều sách đọc để tìm hiểu về cơ chế của bộ óc. Ngoài thời gian học ở trường, hàng ngày mình thường thu xếp thời gian để trò chuyện với bố. Mình coi đó là một phương pháp chữa bệnh. Theo cách nghĩ của mình, có thể khơi dậy trí nhớ của bố bằng cách chú ý gợi lại những kỷ niệm sâu sắc, hoặc những gì đã ám ảnh trong quá khứ.

Hôm ấy mẹ đi vắng, mình hỏi bố:

- Bố có biết cô Hiền không?

 Bố ngồi lặng. Mình phải hỏi đến hai lần thì bố mới nói:

- Cái tên quen quen.

-Nhưng bố có nhớ đã gặp cô ấy ở đâu không?

 Bố lại lặng đi, cố lục tìm trong trí nhớ. Rồi bố lắc đầu

- Chịu, bố không nhớ được.

- Thế bố có nhớ ai tên Ngọc không?

 Bố cũng suy nghĩ giây lát rồi bảo:

- Bố cũng thấy quen quen nhưng không nhớ ra là ai.

Mình hỏi bố chuyện bố có biết tại sao ông nội bỏ nhà ra đi không?  Bố suy nghĩ rồi lại lắc đầu:

- Bố không biết.

Mình tự nhiên thấy cay cay ở mắt. Tại sao con người rồi có thể quên lãng hết tất cả những gì sâu sắc nhất của cuộc đời mình như vậy. Con người tựa như một định mệnh đau thương và huyền bí. Từ một cõi xa thẳm khôn cùng nào con người bỗng nhiên xuất hiện và rồi lại biến đi.  

 

Thầy Phan tỏ ra vui hơn mỗi khi mình đến thăm. Một cái gì tươi sáng, trẻ trung đã thức dậy trong hồn thầy. Ngày trước, căn phòng của thầy tĩnh lặng, nghiêm trang, chay tịnh như của một thầy tu. Cũng vẫn cái chay tịnh ấy, nhưng dường như mỗi lần mình đến, mình cắm hoa, mình mở nhạc và nói chuyện, một cái gì tươi trẻ đã làm cho căn phòng trở nên sống động. Mình cảm nhận được nét tươi vui và đồng cảm của thầy.

Nhưng một câu hỏi càng ngày càng lớn dần lên trong mình. Thế vợ con thầy đâu nhỉ? Hay là thầy không lấy vợ. Mỗi lần nhìn lên ban thờ nhà thầy, mình thấy tấm ảnh một phụ nữ còn trẻ. Mình tự hỏi, người phụ nữ ấy có phải là vợ thầy không? Có một điều bí ẩn nào đã phủ lên cuộc đời của thầy vậy?  Câu hỏi ấy cứ lớn dần lên, nhưng mình không dám hỏi thầy.

Hôm ấy thầy rất vui. Mình gõ cửa. Thầy ra mở cửa vừa thấy mình, thầy nói ngay:

- Thầy đang có việc muốn báo cho em đây.

Mình e dè:

- Có quan trọng không thầy?

- Quan trọng chứ. Trường và khoa mới ký được một thoả thuận hợp tác đào tạo đại học và sau đại học với một số trường đại học của Anh và Pháp. Khoa quyết định gửi em đi học ở Pháp. Em có nguyện vọng theo đuổi ngành hoá dược, mà nước Pháp là một trong những nước có ngành hoá dược phát triển hàng đầu thế giới. Thầy tin, ở một môi trường như vậy, em sẽ được học những kiến thức cần thiết cho công việc nghiên cứu sau này.

Mình dường như không tin vào tai mình nữa. Mình vừa thấy vui, lại thấy buồn, ngổn ngang bao nhiêu nỗi. Nhưng thầy đã nói tiếp:

- Được đi Pháp học là ước mơ của bao nhiêu người. Tiếng Pháp của em lại tốt. Chứ học ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa bây giờ, tình hình khó khăn lắm. Bên ấy người ta cải cách thế nào mà xã hội trở nên lộn xộn, đầy bè đảng, khó hiểu?

 Đợi thầy nói xong, mình ướm hỏi về anh Khánh và Ngọc. Thầy bảo mọi người vẫn viết thư cho thầy.  Mãi một lúc sau mình mới nói được với thầy:

- Được đi học nước ngoài là một niềm mơ ước của em. Nhưng lúc này…

 Mình thấy lòng nghẹn lại. Bỗng nhiên mình thấy một nỗi đau xót khó tả trào lên trong lòng.

- Em có điều gì vướng mắc?

 Thầy nhìn mình, vẫn cái nhìn bình thản, có sức ám ảnh, thấu suốt vào tận tâm khảm.

- Bố em thì ốm nặng. Mà dạo này em lại đang thử áp dụng một phương pháp mới gợi lại trí nhớ của bố em... Em xem đó cũng là một phương pháp điều trị...

Thầy nghe mình nói, im lặng nhìn ra khung cửa sổ. Dường như trong thầy cũng dang dâng lên một niềm xúc động sâu kín. Lúc sau, thầy mới nói, một giọng trầm:

- Thầy hiểu, thầy rất hiểu tâm trạng của em. Em quyết định như thế nào tuỳ em. Nhưng theo thầy, em cần phải nghĩ đến tương lai. Cuộc sống bao giờ cũng vẫn ngặt nghèo.

 Mình chưa thể hiểu hết những gì thấy nói. Trong lòng mình dâng lên một nỗi lo lắng và bồi hồi khó tả.

Em xin phép thầy, em về.

 Mình nhìn thầy trìu mến và bước ra. Thầy tiễn mình ra cửa. Mình nghiêng người chào thầy, và thầy cũng nghiêng mình chào lại. Đó là một biểu hiện chưa từng có ở thầy.

Mình về, suốt đêm hôm ấy mình suy nghĩ mãi. Sáng hôm sau, mình đến lớp. Không hiểu sao, mình thấy mọi người nhìn mình khang khác. Ai đã đưa tin mình được chọn vào danh sách đi học ở Pháp. Những câu chúc mừng, những lời xì xào... Mình nói với mọi người:

- Mình đã biết tin chính thức đâu.

 Riêng Hoàn, đến bên nói:

- Mình phục cậu đấy.

 Mình không hiểu câu ấy có hàm ý gì, nhưng đành đáp lại:

- Hoàn đừng nói thế, mình có gì mà phục.

Hoàn nhoẻn miệng cười.

Mình biết Hoàn vẫn ghen tỵ với mình về lực học. Nếu nói về lực học, Hoàn không bằng mình, nhưng vì Hoàn khéo léo, cầu tiến nên cũng gây được ấn tượng với nhiều người. Mình linh cảm, Hoàn ghen tức với mình về chuyện được xét đi học ở nước ngoài. Khi mình đi đến cuối hành lang, gặp Diệu Linh đi từ dưới cầu thang lên. Diệu Linh nói:

- Mình mừng cho cậu... Mình vừa chửi cho bọn thằng Hoàn một trận đấy. Chúng nó là con trai mà hèn...

 Mình  hỏi, cố giữ giọng bình thản:

-  Có chuyện gì vậy Linh?

 Diệu Linh nói:

- Chúng nó chuyền tai nhau, cậu tìm cách dùng ưu thế đàn bà cầu thân các thầy để được nhận xét tốt và được gửi đi học.

 Mình thấy tưng tức. Máu trong tim mình như sôi lên.

- Đúng là hèn. Mới chỉ có thế mà đã tìm cách vu cáo nhau... kẻ nào thèm, mình sẽ nhường cho, mình không cần cạnh tranh với họ.

 Diệu Linh quắc mắt nhìn mình:

- Cậu có biết câu: “Chó cứ sủa, người cứ đi.’’  Chúng nó nói gì mặc nó. Người xung quanh có mắt cả.

Cuối buổi sáng hôm đó, thầy Phan gọi mình lên văn phòng. Vẫn cái nhìn cương nghị, bình thản, thầy nói với mình:

- Em ngồi xuống đây.

 Mình ngồi xuống chiếc ghế trống trước mặt thầy. Giọng thầy êm dịu, ấm áp:

- Em đã suy nghĩ xong chưa?

 Giọng thầy lặng lại:

- Thầy nghĩ em nên quyết định đi. Con đường em đi còn xa. Khoa học đòi hỏi em phải biết can đảm và hy sinh.

Mình ngồi im. Mình nhìn thầy vô cùng thân mến, rồi mình cất giọng lý nhí:

- Thưa thầy, em quyết định sẽ đi học.

 Ánh mắt thầy tươi hẳn lên, thầy hé nở một nụ cười.

- Thầy cũng nghĩ là em đồng ý. Bây giờ em về lớp đi.

Tối hôm ấy, sau bữa cơm mình nói với bố mẹ:

- Con được các thầy gửi đi học ở Pháp.

 Mẹ xúc động đến mức không nói được gì. Nước mắt mẹ trào ra. Còn bố, đến bây giờ mình vẫn không thể hiểu được lúc ấy bố nghĩ gì. Tâm hồn của bố từ lâu đã chìm vào một cõi bí mật, như một dòng sông ngầm không thể khám phá. Bố nhìn mình không nói gì. Nét mặt không vui, không buồn. Nửa đêm hôm ấy mình thức giấc, quờ tay xuống gối, mình lại thấy những giọt nước mắt của mẹ lặng lẽ thấm ướt một bên gối. Mình biết mẹ đau buồn, mẹ cô đơn. Mình muốn ôm lấy mẹ, muốn thốt lên:

- Mẹ ơi, con yêu mẹ... Con không muốn rời xa mẹ...

 Nhưng không hiểu sao, mình như bị đông cứng lại. Những ý nghĩ cũng dần như bị một bàn tay vô hình bóp nặn. Rồi mình cố thở sâu, nhắm mắt và chìm dần vào giấc ngủ.

Những giấc mơ triền miên đã đến với mình đêm hôm ấy. Mình bị lạc trong một hoang mạc khô cằn. Tứ bề chỉ có cát và cát. Lưa thưa những cây đại thụ cỗi cằn lá nhọn như kim, cứng như thép chìa ra. Mình thấy thỉnh thoảng cũng có bóng dáng con người. Nhưng toàn những kẻ xa lạ, miệng mấp máy mà không thành lời. Khi mình tiến đến gần, thì hoá ra đó là những con người bằng thép. Mình vừa chạy vừa nghĩ, hoá ra con người thành máy móc cả rồi sao? Mình khóc, không hiểu sao mình khóc.

 (Còn nữa)

Lên đầu trang

Tiêu đề

Hiện tại không có bình luận nào.

Viết bình luận của bạn


Sự kiện  

Lễ kỷ niệm 50 năm thảm họa da cam ở Việt Nam

VanVN.Net - Sáng nay, 10/8/2011 tại Nhà hát lớn Hà Nội, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam (VAVA) đã long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm nửa thế kỷ thảm họa da cam gieo rắc trên đất nước ta. Đúng ...

Nhân vật  

Công chức Nga thời nào tốt hơn

VanVN.Net - Nhà văn I. M. Poliakov, Tổng biên tập Văn báo, ủy viên ủy ban Văn hóa phủ Tổng thống, ủy viên Đoàn chủ tịch Hội nhà báo Matxcơva, tác giả nhiều tiểu thuyết chống quan liêu như Tình trạng ...

Thư giãn  

Thấy, nghĩ và viết: “Từ đâu đến đâu”

VanVN.Net - Việc kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa XIII lần này đã phải dành thời gian chủ yếu cho vấn đề tổ chức và nhân sự của các thiết chế Nhà nước, vẫn phải để ra thời lượng ...

Nhà văn đọc sách  

"Mùa mưa ở Singapore" - đọc như thấm một cơn mưa

VanVN.Net - Sau cuốn sách đầu tiên: “Không khóc ở Kualalumpur” ra đời cùng thời điểm này năm 2010, tác giả trẻ Linh Lê tiếp tục gửi tới bạn đọc cuốn tiểu thuyết thứ hai: “Mùa mưa ở Singapore” cũng trong ...